Cánh Buồm Đỏ Thắm - Chương 04

Chương 4. Đêm trước

Đêm trước ngày hôm đó, bảy năm sau kể từ cái ngày người sưu tầm dân ca Egle ngồi bên bờ biển kể cho cô gái bé nhỏ nghe câu chuyện về con tàu có những cánh buồm đỏ thắm, Assol đang trên đường về nhà sau một chuyến viếng thăm các cửa hiệu đồ chơi như lệ thường, với vẻ chán ngán và khuôn mặt buồn rầu. Cô buộc phải mang những món hàng của mình trở về. Cô thấy lòng mình não nề đến nỗi không cất nên lời. Chỉ khi nhận thấy qua gương mặt nôn nóng của ông Longren, hiện lên vẻ chờ đón một điều gì tồi tệ hơn thế nữa, cô mới vừa đưa ngón tay vẽ lên mặt kính cửa sổ, vừa kể lại chuyện xảy ra, mắt nhìn ra biển xa đầy thất vọng.

Lần này, ông chủ cửa hiệu đồ chơi bắt đầu bằng việc mở cuốn sổ tính toán ra và chỉ cho cô thấy cha con cô còn nợ họ bao nhiêu. Cô run rẩy khi nhìn thấy con số lớn tướng có ba chữ số.

- Đây là số các người đã lấy từ tháng mười hai, - ông chủ cửa hiệu nói, - còn đây chúng ta sẽ xem số hàng đã bán được. - Và ông ấn ngón tay vào một con số khác, chỉ có hai chữ số. - Trông thật bực mình và ái ngại.

- Con trông thấy mặt ông ấy rất bực tức. Giá mà bỏ chạy được thì tốt biết mấy, nhưng thú thật con cũng chẳng còn sức mà chạy nữa vì xấu hổ. Và ông ấy lại bảo: “Cháu yêu, bác chẳng còn lời lãi gì nữa hết. Bây giờ hàng ngoại đang là mốt, các cửa hiệu tràn ngập những thứ đó, và loại này người ta chẳng dùng nữa”. Ông ấy nói thế đấy ạ. Ông ấy còn nói nhiều nhưng con hãi quá nên quên sạch cả. Có nhẽ ông ấy cũng thương hại con nên đã khuyên con thử sang tiệm “Hội chợ trẻ em” và “Cây đèn Aladdin”.

Nói xong những điều chủ yếu nhất, cô gái quay lại ngập ngừng nhìn ông già. Ông Longren ngồi ủ ê, tì khuỷu tay lên đùi, còn bàn tay bó chặt lấy đầu gối. Cảm nhận được cái nhìn của con gái, ông ngẩng đầu lên, thở dài.

Gượng cưỡng lại tâm trạng u ám của mình, cô gái chạy đến bên bố và ngồi xuống, nhẹ nhàng luồn cánh tay vào dưới tay áo khoác da của ông, bật cười, ngước lên nhìn mặt cha từ bên dưới và tiếp tục điệu bộ vui vẻ.

- Không sao mà, chưa là gì hết, xin cha nghe con kể tiếp này. Con bước ra khỏi đó nhé. Rồi, ồ, con đi vào một cửa hiệu to khủng khiếp, ở đấy có hàng bao nhiêu là người. Họ xô cả vào con, nhưng con cũng len qua được và đến bên một ông đen sì đeo kính. Con không nhớ mình đã nói những gì với ông ấy, cuối cùng chỉ biết ông ấy cười khẩy, lục cái giỏ lên, xem qua một chút, rồi lại gói lại như cũ vào cái khăn và trả lại con.

Ông Longren bực bội lắng nghe. Ông tưởng như đang nhìn thấy đứa con gái mình bối rối giữa đám người giàu có trong cửa hiệu, ngập trong các thứ hàng đắt tiền. Con người kỹ tính mang kính đen đã hạ cố giảng giải cho con bé hay, rằng ông ta sẽ phá sản mất nếu nhận bán những thứ đồ chơi thô sơ của ông Longren. Rồi ông ta lơ đãng và thuần thục đặt lên quầy hàng trước mặt con bé những món đồ xếp hình nhà, cầu đường sắt, những chiếc xe ôtô đường nét sắc cạnh và những bộ đồ chơi chạy điện, máy bay, động cơ. Tất cả những thứ đồ đều sực nức mùi sơn và thật kiểu cách. Theo lời ông ta thì hóa ra trẻ con ngày nay thích được chơi những trò giống với những gì người lớn đang làm.

Assol còn đến hiệu “Cây đèn Aladdin” và hai cửa hiệu khác nữa, nhưng chẳng ích gì.

Kể xong, cô bé bắt tay vào nấu bữa tối. Ăn tối xong, uống hết một cốc cà phê đặc, ông Longren nói:

- Ta đã không gặp may thì phải kiếm cách xem sao. Có lẽ bố lại phải đi biển thôi, làm trên tàu “Fitzroy” hay “Palermo” vậy. Cuối cùng thì họ nói cũng phải, - ông trầm ngâm tiếp lời, nghĩ về các thứ đồ chơi. - Bây giờ trẻ con không chơi nữa, mà chúng học hỏi. Chúng cứ học, học hoài, mà chẳng bao giờ bắt đầu cuộc sống được. Tất cả là vậy đấy, tiếc, đúng là tiếc thật. Con có sống vắng cha hết kỳ đi biển được không? Để con ở nhà một mình thì cũng ngớ ngẩn thật.

- Con cũng có thể đi biển cùng cha mà, làm trong bếp chẳng hạn.

- Không được! - Ông Longren đóng cộp lời phản đối bằng một cú đập tay xuống làm mặt bàn rung lên. - Cha còn sống thì con chẳng phải làm gì hết. Tóm lại, còn có thì giờ để suy tính.

Ông cau có nín lặng. Assol ngồi trong góc ghế đẩu, bám chặt lấy ông; không ngoảnh đầu lại ông cũng biết cô bé sẽ vỗ về an ủi ông và chút nữa thì ông mỉm cười. Nhưng nếu mỉm cười ông sẽ làm cô bé bối rối và sợ hãi. Cô lẩm bẩm điều gì, vuốt lại mớ tóc bạc rối bời của ông, hôn lên bộ ria và bịt chặt lỗ tai đầy lông của cha bằng những ngón tay nhỏ nhắn, mảnh dẻ và nói:

- Nào, bây giờ thì cha sẽ không nghe thấy được là con rất yêu cha.

Trong lúc cô bé đang làm dáng cho ông bố, ông Longren ngồi, mặt nhăn nhúm như người sợ chết vì khói, nhưng nghe những lời con gái nói, ông cười phá lên.

- Con gái yêu quý, - ông chỉ nói như vậy, vỗ nhẹ vào má cô bé rồi ra bờ biển xem chiếc thuyền.

Assol đứng ngẫm nghĩ một lát ở giữa căn phòng, lưỡng lự không biết nên thả mình theo nỗi buồn hay làm cho xong những việc nhà đang đợi cô. Sau đó, rửa bát đĩa xong, cô xem lại những thực phẩm còn trong tủ. Cô không cần cân hay đong lại cũng biết bột mì không thể đủ ăn đến cuối tuần, hộp sắt tây đựng đường đã nhìn thấy đáy; gói chè và cà phê hầu như đã rỗng, bơ cũng hết nhẵn, và cái duy nhất khiến người ta tạm bớt bực bội là bao khoai tây khá đầy đặn. Tiếp đến, cô lau sàn, rồi ngồi vào tính khâu nẹp chiếc váy được may lại từ đồ cũ, nhưng lại nhớ ngay ra rằng các mảnh cắt nằm sau chiếc gương. Cô lại chỗ chiếc gương và cầm lấy gói vải; cô nhìn bóng mình trong gương.

Trong khoảng trống sáng trưng nẹp bởi khung gỗ dẻ in bóng cả căn phòng là hình ảnh một thiếu nữ nhỏ nhắn, mảnh mai, mặc chiếc váy vải muslin rẻ tiền màu trắng, có hình những đóa hồng nho nhỏ. Nằm trên bờ vai cô là một chiếc khăn chéo len màu xám. Khuôn mặt rám nắng sáng sủa nửa con nít linh hoạt và biểu cảm; cặp mắt đẹp tuyệt, hơi có vẻ nghiêm nghị so với tuổi đang nhìn với vẻ chăm chú bẽn lẽn của một tâm hồn sâu thẳm. Khuôn mặt nhỏ không cân đối làm nao lòng người bởi những nét ngây thơ và tinh tế. Mỗi đường lượn, mỗi nét cong của khuôn mặt ấy đều có thể tìm thấy trên rất nhiều gương mặt phụ nữ, nhưng tổng thể của chúng toát lên một vẻ hoàn toàn riêng biệt, đặc biệt dễ thương. Chúng ta hãy dừng ở đây. Những gì còn lại không thuộc về quyền lực của ngôn từ, ngoài từ “duyên dáng”.

Cô gái trong gương mỉm cười, cũng vô thức hệt như Assol đang mỉm cười. Nụ cười hiện ra buồn bã, thấy thế, cô gái bồn chồn, như thể đang nhìn một ai khác vậy. Cô tì má lên mặt gương, nhắm mắt lại, và lặng lẽ lấy tay xoa lên mặt gương, nơi phản chiếu hình dáng cô. Hàng đàn những ý nghĩ mơ hồ, trìu mến, sáng lấp lánh lên trong cô; cô cưỡng lại, bật cười và ngồi vào bắt đầu khâu.

Trong khi cô đang may vá, chúng ta hãy ngắm cô gần hơn nữa - vào nội tâm. Trong cô có hai cô gái, hai Assol trong một sự hài hòa tuyệt vời. Một là con gái người cựu thủy thủ, một người thợ thủ công làm đồ chơi, và người kia là vần thơ sống động với tất cả sự diệu kỳ của hình ảnh và hòa âm, với nét bí ẩn bên cạnh ngôn từ, trong tất cả sự gắn bó hòa quyện quấn quýt của nghĩa đen và nghĩa bóng. Bằng kinh nghiệm của mình, cô biết cuộc sống nằm trong giới hạn, nhưng vượt lên trên những hiện tượng chung, cô nhìn thấy một ý nghĩa phản ánh một trật tự khác hẳn. Vậy là, nhìn vào một số vật, ta thấy ở chúng có một cái gì đó không phải bằng khả năng tri giác nữa mà bằng ấn tượng - nhận định theo kiểu con người. Mà đã là của con người thì thật khác nhau. Tương tự như vậy với trường hợp của Assol, cô còn nhìn thấy cái vượt xa thứ mắt thường có thể nhìn thấy được. Thiếu đi khả năng đó, có lẽ mọi điều đơn giản dễ hiểu đã trở nên xa lạ với tâm hồn cô. Cô biết đọc và thích đọc, nhưng ngay cả khi đọc cô vẫn cảm nhận được những ngụ ý sâu xa không lộ thành lời, giống như cách cô hằng sống. Một cách vô thức, bằng những cảm hứng theo cách riêng của mình, cô mở dần những khám phá nhỏ mong manh, không thể miêu tả được, nhưng trọng đại, như sự ấm áp và tinh khôi. Đôi khi - và điều này tiếp diễn trong nhiều ngày - cô như biến thành một người khác; sự xung đột vật chất của cuộc sống biến mất, như tiếng vĩ cầm phá tan màn im lặng; và tất cả những gì cô nhìn thấy, những gì cô đã trải qua, những gì ở xung quanh đã dệt thành lớp mạng ren huyền bí giữa những nét đời thường. Không chỉ một lần, hồi hộp và bối rối, đang đêm cô bỏ ra bờ biển, ngồi chờ đón bình minh, ngóng đợi con tàu với những cánh buồm đỏ thắm. Những giây phút ấy là niềm hạnh phúc của cô. Chúng ta thật khó lòng thả mình vào những câu chuyện cổ tích như thế; còn cô, cũng thật khó lòng không kém để ra khỏi uy lực và sự cuốn hút của chúng.

Vào một lúc khác, ngẫm nghĩ về tất cả những điều này, hẳn cô phải thành thực ngạc nhiên về bản thân, không tin rằng mình đã tin là như vậy. Mỉm cười chia tay biển cả để buồn bã trở lại thực tại, giờ đây, cô vừa tiếp tục việc cắt may, vừa hồi tưởng lại cuộc sống của mình. Quá nhiều điều đơn sơ và buồn tẻ. Nỗi cô quạnh chỉ có hai cha con có khi khiến cô thấy nặng nề vô cùng tận, nhưng trong cô đã hình thành nếp hằn của sự ngại ngùng nội tâm, cái nếp hằn giày vò ấy khiến cô chẳng thể vui lên được nữa. Người ta cười giễu cô, bảo rằng: “Nó lẩn thẩn ấy mà”, “dở hơi”. Cô đã quen với nỗi đau này, có khi cô thậm chí phải chịu cả nỗi sỉ nhục, để rồi ngực cô nhức lên như bị ai đánh. Là một thiếu nữ, cô không được ưa chuộng ở Kaperna, dù cũng có một số người nhận ra, tuy mơ hồ và bản năng, rằng cô được tạo hóa ban cho nhiều cái hơn người - chỉ có điều bằng thứ tiếng khác. Dân Kaperna chuộng những kiểu đàn bà vững vàng, đẫy đà với nước da nhờn bóng và bắp chân nung núc, cánh tay mạnh mẽ; ở đây, khi tán tỉnh người ta vỗ vào lưng và xô đẩy nhau như giữa chợ phiên vậy. Cái kiểu tình cảm này giống như sự tuệch toạc chẳng chút quanh co của một tiếng rống thô lỗ. Assol làm quen với môi trường thẳng thừng này cũng giống như thế giới của những bóng ma dần trở nên quen thuộc với những người tìm kiếm một cuộc sống tâm linh; hãy cứ việc chiếm lĩnh tất cả những điều mê hoặc của Assunta hay Aspasia; còn tình yêu ư, sẽ chẳng có đâu. Vậy là trong tiếng rúc đều đặn của kèn đồng nhà binh, tiếng buồn diệu kỳ của đàn phong cầm bất lực không kéo nổi đoàn nghiêm trang khỏi đội ngũ chỉnh tề của nó. Cô gái quay lưng lại với tất cả những gì được nhắc tới trong những dòng chữ này.

Trong lúc cô gái khe khẽ ngâm nga bài ca cuộc đời, đôi tay nhỏ nhắn làm việc cần mẫn và khéo léo. Khi cắn đứt sợi chỉ, cô phóng mắt nhìn xa ra phía trước, nhưng điều đó chẳng mấy ảnh hưởng tới những đường may thẳng thớm và đều như máy của cô. Dù ông Longren chưa quay về, cô cũng không thấy lo lắng. Gần đây ông vẫn thường xuyên bơi đi đánh cá hoặc đơn giản chỉ đi cho thoáng khí. Cô không còn bị nỗi sợ hãi giày vò: cô biết sẽ chẳng có điều gì tệ hại xảy đến với cha cô được. Ở điểm này, Assol vẫn còn là bé gái nhỏ thuở nào - kẻ vẫn cầu nguyện theo cách riêng của mình, khi mỗi buổi sáng lại thỏ thẻ một cách thân thiện: “Xin chào, đức Thượng đế”, còn đến chiều: “Tạm biệt nhé, đức Thượng đế”.

Theo cô, sự giao tiếp ngắn ngủi như vậy với đức Chúa Trời đủ khiến ngài ngăn chặn mọi điều bất hạnh. Và cô đặt mình vào vị trí của ngài: Thượng đế ngàn đời luôn bận bịu với công chuyện của hàng triệu triệu con người, vì vậy những điều vụn vặt mờ nhạt của đời thường, như một người khách đến một ngôi nhà đầy ắp khách khứa, cần phải có một sự nhẫn nại ý nhị mà chờ đợi vị chủ nhà đang tất tả bận rộn, tùy tình thế mà liệu đường ăn ở.

May vá xong, Assol đặt mớ đồ khâu vào chiếc bàn con ở góc nhà, thay quần áo và đi nằm. Bếp lửa đã tàn. Cô lập tức cảm thấy không thể ngủ được nữa; đầu óc tỉnh táo cứ như lúc ban trưa, thậm chí bóng tối đang vây quanh dường như là không có thật, thân thể cũng như đầu óc, thấy nhẹ bẫng như ban ngày; tim đập nhanh như tiếng đồng hồ bỏ túi, dường như nó đang tích tắc chạy ngay dưới gối. Assol bực bội, càu nhàu, lúc tung chăn ra, lúc lại kéo lên trùm kín đầu. Cuối cùng thì cô cũng gọi đến được một hình ảnh quen thuộc, thường vẫn giúp cô ngủ thiếp đi: cô thầm hình dung mình đang ném những viên đá xuống mặt nước sáng lóa, đồng thời quan sát những gợn sóng đang loang ra. Giấc ngủ như chỉ chờ có thế; nó đã đến, thì thào trong tiếng nói của mẹ Mary yêu dấu, đứng ở nơi đầu giường mỉm cười trong tiếng nói loang ra xung quanh: “S…S…Suỵt!”. Assol lập tức thiếp đi. Cô gái mơ thấy giấc mơ yêu thích: cây cối đơm hoa, nỗi buồn nhớ, vẻ quyến rũ, những bài ca và những điều huyền bí - những điều mà khi tỉnh lại, cô chỉ còn thấy trong những tia long lanh nơi mặt nước xanh biếc, từ bàn chân truyền lên trái tim với một cảm giác giá lạnh và hân hoan. Được ngắm những thứ ấy, cô gái còn lưu lại phút chốc nữa nơi xứ sở của những điều không thể có, rồi tỉnh giấc hẳn và ngồi dậy.

Nếu cô gái không thiếp đi thì giấc mơ đã chẳng thể tìm tới. Một cảm giác sung sướng, mới mẻ và mong muốn làm ngay một điều gì đã sưởi ấm bản thân Assol. Cô nhìn quanh như ta ngắm một ngôi nhà mới. Trời đã sáng - dù vẫn còn chạng vạng, nhưng ánh chạng vạng đó đã có thể soi rõ xung quanh. Bên dưới cửa sổ vẫn còn tối nhưng phía bên trên đã bắt đầu sáng rõ. Ngoài nhà, nơi cuối khung cửa sổ, ngôi sao mai vẫn sáng lên lấp lánh. Biết rằng chẳng thể ngủ tiếp được nữa, Assol mặc quần áo, đến bên cửa sổ, kéo chốt và mở tung cánh cửa ra. Bên ngoài kia ngự trị một bầu yên tĩnh lắng đọng và rõ nét, như vừa mới tràn đến. Trong ánh bình minh xanh biếc, lấp loáng những khóm cây, xa hơn nữa là cây cối còn đang thiếp ngủ, phảng phất hương đất nồng lẫn vào khí trời hanh oi.

Giữ tay trên khung cửa sổ, cô gái ngắm nhìn và mỉm cười. Bỗng nhiên, một cái gì như một tiếng gọi xa xăm, xôn xao từ bên trong ra, ập từ bên ngoài vào, khiến cô như chợt tỉnh giấc một lần nữa bởi một thực tế hiển nhiên với cái hiển hiện hơn và khẳng định hơn. Một nhận thức đầy đủ và tươi sáng, kể từ giây phút này, không rời bỏ cô nữa. Cũng như khi ta nghe và hiểu được lời trò chuyện của mọi người, rồi khi nghe lại một lần nữa, ta lại cảm nhận và thấu hiểu, nhưng lần này với một ý nghĩa khác hẳn. Với cô cũng như vậy.

Chiếc khăn len chéo cũ kỹ quàng trên đầu cô bao giờ cũng mang một vẻ trẻ trung, tươi tắn. Cô gái buộc chặt chéo khăn ở dưới cằm, đóng cửa và chạy vù ra đường. Dù ngoài đường vắng tanh và lặng như tờ, cô vẫn cảm thấy nó đang ngân vang rất rõ như tiếng một dàn nhạc đang chơi. Tất cả đều dễ thương, đều làm cô sung sướng. Làn bụi ấm nóng quẩn bên gót chân trần của cô. Không gian sáng sủa và vui tươi. Những đám mây cùng các mái nhà sẫm lại trong bầu trời ban mai đang sáng dần. Vườn tược, rào giậu, những khóm tầm xuân cùng con đường vẫn đang thiêm thiếp trong cơn mơ màng. Tất cả đều hiện ra rất khác so với ban ngày - cũng thế, nhưng trượt lên trước một ban ngày hiện thực. Tất cả như đang thiếp ngủ, với cặp mắt mở to, kín đáo dõi theo bước chân của cô gái.

Càng đi xa cô càng rảo nhanh bước chân, vội vã rời xa ngôi làng. Sau Kaperna là đồng cỏ sạch tinh khôi, sau đồng cỏ, dọc theo những triền đồi chạy men biển là những cây dẻ, cây dương và phi tử. Ở cuối con đường lớn, chuyển tiếp sang con đường mòn vắng vẻ, một chú chó đen lông xù với khoang ngực trắng, cặp mắt bồn chồn biết nói, dịu dàng quẩn lấy chân Assol. Con chó nhận ra cô gái, rít lên ăng ẳng, điệu đà ngoe nguẩy thân mình bước theo Assol, lặng lẽ phục tùng cô như người trong nhà. Assol nhìn vào cặp mắt mách bảo của nó, đoán chắc rằng nếu như không có lý do thầm kín phải giữ im lặng, tất chú ta đã cất lời chuyện trò cùng cô rồi. Nhận thấy nụ cười của cô bạn, con chó vui vẻ nhếch cái mõm, ve vẩy đuôi chạy tớn lên trước, rồi lại đột ngột ngồi xuống một cách thờ ơ, bận rộn cọ chân vào tai, mõm ngoặp một kẻ thù thường xuyên vô hình, rồi lại chạy ngược trở lại.

Assol rẽ vào một bãi cỏ cao dài đang lộp độp rụng sương, bàn tay cô giữ lại đám lá mọc thành túm, cô bước đi, mỉm cười đáp lại mỗi sự động chạm của chúng. Ngắm nghía những đài hoa kỳ lạ, đám cọng cỏ rối bời, cô nhận xét chúng như những con người: dáng điệu, sự nỗ lực, những chuyển động, những đường nét và những ánh nhìn. Giờ đây có lẽ cô sẽ chẳng hề ngạc nhiên khi nhìn thấy cuộc diễu hành của lũ chuột đồng hay niềm vui hoang dại của gã nhím, dọa nạt chú lùn đang say ngủ phải hoảng lên bởi những chiếc lông nhọn hoắt của gã. Và đúng thế, một gã nhím xám lăn lông lốc trên con đường mòn ngay trước mặt cô. “Phúc… Phúc…” - gã cất tiếng cởi mở thân thiện, như bác xà ích càu nhàu với khách bộ hành. Assol chuyện trò với những con vật cô nhìn thấy và biết rõ chúng. “Xin chào, bệnh nhân tội nghiệp,” -
cô nói với bông rẻ quạt tim tím bị sâu nhấm lỗ chỗ. “Mày nên ngồi nhà thì hơn,” - đó là lời cô nhắc bụi cây mọc ngay giữa đường mòn làm vướng chân người đi qua. Một chú bọ dừa bám vào bông hoa chuông khiến nó cong oằn xuống, hất chú ta rụng bộp xuống đất, nhưng chú bọ vẫn ngoan cố ngọ nguậy những cái chân. “Hãy phủi bụi cho vị khách béo tròn,” - Assol nhắc nhở. Chú bọ dừa rõ là chẳng thể trụ thêm được nữa, đành xòe cánh vè vè bay mất. Thế là xốn xang, bồn chồn, rạo rực, cô tiến lại phía triền đồi, hòa vào không gian dày cỏ của nó; nhưng giờ đây, mọi vật xung quanh đã thực sự trở thành những người bạn của cô, cô biết chắc điều này vì chúng cất giọng trầm trầm trò chuyện với cô.

Đó là những cây đại thụ đứng xen cùng đám kim ngân và phi tử. Những cành rủ xuống của chúng chạm vào đỉnh ngọn những bụi cây. Giữa mảng lá dẻ to tướng im lìm trồi lên những mũ hoa trắng ngần, hương thơm của chúng hòa quyện cùng hương vị của sương sớm và nhựa thông. Con đường mòn, lổm ngổm những gốc cây trơn nhẵn, lúc hõm xuống, khi trồi lên. Assol như đang ở trong nhà mình. Cô nắm lấy những chùm lá rộng của chúng và lắc lắc, cô chào hỏi đám cây cối như con người chào lẫn nhau. Cô bước đi, thì thào lúc thầm trong óc, lúc cất lên thành lời: “Ồ, chào anh bạn, chào bạn thân mến! Các bạn đông thật, những người anh em của tôi! Tôi đang phải đi vội đây, nào các anh em, cho tôi qua với nào! Tôi biết tất cả, hiểu tất cả và trân trọng tất cả các bạn mà!”. “Những người anh em” vuốt ve cô trong chừng mực có thể bằng những chiếc lá của mình và thân thiết đáp lời. Cô gái ra tới con dốc bên bờ biển, chân lấm đầy đất. Cô bước đến chân dốc, thở hổn hển vì đi nhanh. Một niềm tin sâu thẳm, vững chắc rộn ràng ngân vang trong lòng. Cô phóng mắt nhìn về chân trời, nơi những âm thanh nhè nhẹ của những con sóng vỗ bờ dội trở lại nơi cô những tiếng vang kiêu hãnh của những con sóng trinh nguyên.

Lúc đó, biển viền một đường chỉ vàng quanh chân trời còn đang thiếp ngủ; ở nơi chân dốc, nước đang dâng lên rồi hạ xuống trong những vũng nhỏ ven bờ. Biển mơ màng nơi ven bờ, từ màu thép xám chuyển sang màu xanh thẫm, rồi màu đen. Bên ngoài đường chỉ vàng, bầu trời đang lóe lên, sáng rỡ ra trong những dải ánh sáng rộng. Những đám mây trắng ửng lên một màu phớt hồng khi được bao phủ một lớp ánh sáng nhẹ linh thiêng. Phía xa tối sẫm đã mờ mờ hiện lên ánh tuyết trắng; những đám bọt sáng lên lấp lánh, và những đứt đoạn đỏ ối, bừng cháy từng quãng trên đường chỉ vàng, quăng những gợn thắm đỏ xuống khắp mặt đại dương, tới tận bên chân Assol.

Cô gái ngồi co chân, hai tay bó gối. Chăm chăm vươn người về phía biển, cô mở to mắt nhìn ra xa chân trời, đôi mắt to, hoàn toàn không còn mang vẻ gì của một người lớn - đó là đôi mắt của một đứa trẻ. Tất cả những gì cô đã chờ đợi lâu đến thế, cháy bỏng đến thế, đều sinh ra ở kia, nơi tận cùng thế gian. Cô trông thấy một trái đồi nằm sâu trong đáy nước ở nơi xứ sở của những vực thẳm sâu xa; trên bề mặt của nó buông xuống những giống cây leo; giữa những đám lá rộng của chúng lấp lóe những búp hoa lạ đâm lên từ gốc. Những chiếc lá nhô khỏi ngọn sóng lấp lánh khắp mặt đại dương. Nhưng những người không phải Assol sẽ chỉ coi chúng là những gợn sóng lấp lánh mà thôi.

Từ những đám cây ấy hiện lên một con tàu, nó bơi đến và dừng lại trong ánh ban mai rực rỡ. Từ nơi xa kia, nó hiện lên rõ nét như một tảng mây. Nó bơi đi, tỏa ra sự vui vẻ, như rượu vang, như hoa hồng, như máu, như bờ môi hồng, như nhung thắm đỏ và như một ngọn lửa chói ngời. Con tàu bơi thẳng đến với Assol. Sóng nước rẽ ra dưới mũi tàu, bọt tung trắng xóa lung linh. Cô gái đứng lên, tay áp lấy ngực, trò đùa huyền nhiệm của ánh sáng đã biến thành một gợn sóng: mặt trời đã lên và ánh sáng rực rỡ của buổi sớm đã gỡ bỏ tấm màn bao phủ tất cả những gì còn chưa tỉnh giấc, vươn xuống mặt đất còn đang trong cơn mơ màng.

Cô gái thở dài và nhìn quanh. Tiếng nhạc đã tắt nhưng Assol vẫn còn chơi vơi giữa những hòa âm của nó. Ấn tượng này yếu dần, sau đó biến thành niềm hồi tưởng và cuối cùng chỉ còn lại một sự mệt mỏi. Cô gái nằm lên mặt cỏ, ngáp dài rồi khoan khoái nhắm mắt lại, cô ngủ thiếp đi - ngủ rất say, không chút vướng bận, không hề mộng mị. Một chú ruồi bò vẩn vơ trên bàn chân để trần đã đánh thức cô dậy. Khẽ giãy một bên chân, Assol tỉnh giấc, ngồi dậy. Cô vuốt lại mớ tóc rối bời khiến chiếc nhẫn của Gray bị lộ ra, nhưng cho đó chỉ là cọng cỏ vương vào ngón tay, cô vội vã đưa tay lên sát tận mắt nhìn vào rồi bỗng nhảy bật lên như một tia nước vọt lên từ đài phun.

Trên ngón tay cô lấp lánh chiếc nhẫn của Gray, như một ngón tay lạ. Trong khoảnh khắc, cô không thể cảm nhận được đó là ngón tay của mình.

- Thứ này của ai vậy? Của ai thế này? - Cô sôi nổi kêu lên. - Chẳng lẽ mình đang ngủ mơ? Hay là mình nhặt được mà quên khuấy đi mất?

Tay trái chụp lấy bàn tay phải đang mang chiếc nhẫn, cô lạ lùng đưa mắt tìm quanh, về phía biển, phía những lùm cây xanh; nhưng chẳng có chút gì động đậy, cũng chẳng có ai nấp sau các khóm cây, và ở phía biển xa bừng sáng cũng không thấy có một dấu hiệu nào. Assol má ửng hồng còn trái tim reo vang lời mách bảo tiên tri: “Phải rồi đấy!”. Không có lời giải thích nào cho những gì đã xảy ra nhưng không cần nói, chẳng cần suy nghĩ, cô đã tìm thấy lời giải đáp trong cảm giác rất lạ của mình và chiếc nhẫn trở nên gần gũi đến thế. Run rẩy, cô tháo chiếc nhẫn khỏi ngón tay, để nó trong vốc tay như vốc nước, say sưa ngắm nghía với cả tâm hồn, trái tim, cả niềm hân hoan tràn đầy, cùng cả niềm sùng tín sáng trong của tuổi thanh xuân. Rồi giấu nó vào trong áo nịt, cô vùi mặt vào lòng bàn tay và không nén nổi bật lên tiếng cười. Đầu cúi xuống, cô chậm chạp quay trở về nhà.

Vậy là tình cờ, - như những người văn hoa vẫn thường nói - Gray và Assol đã tìm thấy nhau vào một buổi sớm mùa hạ tràn đầy những điều không thể tránh khỏi.