Cánh Buồm Đỏ Thắm - Chương 05

Chương 5. Chuẩn bị chiến đấu

hi Gray trở lại con tàu “Điều bí mật”, chàng đứng lặng lẽ đến vài phút, tay cứ vuốt mãi tóc từ gáy lên phía trán, tỏ rõ đang bị bối rối đến cực độ. Sự lơ đễnh - chuyển động mơ hồ của cảm giác - phản chiếu lên gương mặt chàng một nụ cười vô cảm của kẻ mộng du. Panten - trợ tá của chàng - khi đó đang leo dọc theo cầu thang, tay bưng đĩa cá rán - lập tức nhận ngay ra trạng thái lạ lùng của chàng thuyền trưởng:

- Ngài, có phải ngài bị thương ở đâu không? - Ông thận trọng hỏi han. - Ngài đã đi đâu? Gặp chuyện gì vậy? Nói chung, đó là chuyện riêng của ngài nhỉ. Một người môi giới chứng khoán đề nghị ta chuyển hàng cho ông ta với một giá rất hời. Còn có tiền thưởng thêm nữa. Nhưng mà ngài làm sao vậy?...

- Cảm ơn ông, - Gray đáp, thở phào như vừa được cởi trói. - Cái mà tôi đang cần chính là tiếng nói đơn giản và tỉnh táo của ông đấy. Như một thứ nước lạnh vậy. Panten này, ông báo với mọi người rằng hôm nay chúng ta sẽ nhổ neo chuyển vào vùng cửa sông Liliana, cách đây mười hải lý nhé. Dòng sông này có nhiều doi đất ngầm rất nông, muốn vào vùng đó chỉ có thể nương theo dòng chảy của nó. Hãy đem bản đồ lại đây. Không cần phải gọi hoa tiêu đâu. Tạm thời chỉ cần thế thôi... À vâng, tôi đang rất cần một giá cước hời, cần như tuyết mùa năm ngoái vậy. Ông có thể chuyển lời đến vị môi giới như vậy. Tôi vào thành phố đây, và sẽ ở đó đến tối.

- Nhưng có chuyện gì vậy?

- Hoàn toàn không có gì, ông Panten ạ. Tôi mong ông lưu ý đến nguyện vọng của tôi và tránh mọi hỏi han. Đến lúc, tôi sẽ thông báo mọi chuyện với ông. Hãy nói với anh em thủy thủ rằng tàu đến kỳ bảo dưỡng, cần đưa vào ụ.

- Rõ rồi, - ông Panten máy móc trả lời sau lưng Gray đã bỏ đi, - xin thi hành tất cả.

Mặc dù mệnh lệnh của thuyền trưởng rất rõ ràng, viên trợ tá vẫn trố mắt lên và hối hả phóng về ca-bin của mình với cái đĩa trên tay, miệng lẩm bẩm: “Này Panten, mi được giao nhiệm vụ rồi đấy nhé. Chẳng nhẽ ngài thuyền trưởng muốn đi buôn lậu một phen?”. Đến đây thì ông Panten bị rối mù lên trong một đám những giả thiết hoang đường nhất. Trong lúc ông ta ngấu nghiến tiêu diệt chú cá rán, Gray xuống ca-bin lấy tiền rồi bơi xuồng qua vịnh biển đến khu thương mại thành Liss. Giờ đây chàng hành động quả quyết và bình tĩnh, hiểu thấu đến từng chi tiết những chuyện sẽ có thể xảy ra trên con đường lạ kỳ. Mỗi một cử động, ý nghĩ, hành động, đều sưởi ấm chàng bởi một niềm cảm khái tinh tế đầy chất nghệ thuật. Kế hoạch của chàng được vạch ra một cách rành rọt và tức thì. Dự định ấy đối với nhận thức về cuộc đời của chàng mà nói, chẳng khác nào những nhát dao sắc lẻm và chính xác cuối cùng của nhà điêu khắc để sau đó khối đá hoa cương bỗng hóa thành một pho tượng tuyệt đẹp, bình thản phơi mình trong ánh tỏa tuyệt vời.

Gray vào ba cửa hiệu liền, chàng cực kỳ để tâm vào việc lựa chọn bởi chàng muốn có được gam màu và chất liệu hoàn hảo như ý. Ở hai cửa hiệu đầu người ta cho chàng xem loại hàng lụa màu rực rỡ, thường thỏa mãn thị hiếu giản đơn phù phiếm; ở cửa hiệu thứ ba chàng thấy mẫu hàng gây cảm giác mạnh mẽ, phức tạp. Chủ hiệu hớn hở tất bật dỡ tung cuộn vải chất trong kho, còn Gray tỏ ra khắt khe như một nhà phẫu thuật. Chàng kiên nhẫn lựa chọn các cuộn vải, mở tung tất cả chúng ra, xem xét, so sánh màu của rất nhiều các mẫu vải đỏ, đến độ quầy hàng ngập lên sắc đỏ chói lòa, tưởng như đang cháy rực lên. Mũi ủng của Gray phủ một làn sóng đỏ sẫm, trên cánh tay và trên gương mặt chàng sáng lên ánh phản chiếu hồng rực. Tùy theo chất liệu từng thứ lụa mà chàng lựa chọn màu sắc: màu hồng nhạt, hồng, hồng sẫm; đủ các loại gam màu: anh đào, da cam và hung sẫm; ở đây có tất cả các cung bậc của mọi sức mạnh và ý nghĩa, khác biệt chỉ trong li tấc tưởng tượng, như thể sự khác biệt giữa các từ “duyên dáng”, “tuyệt vời”, “cực kỳ”, “hoàn hảo” vậy. Từ những nếp gấp lan ra những ẩn ý mà ngôn ngữ của thị giác không thể diễn đạt nổi, nhưng vô số màu thắm đỏ ấy vẫn chưa có gam nào thực sự lọt vào mắt xanh chàng thuyền trưởng của chúng ta. Tất cả những gì ông chủ hiệu mang ra đều đẹp cả nhưng vẫn bị từ chối thẳng thừng. Cuối cùng, một gam màu đã cuốn hút được sự chú ý của vị khách hàng đã chực bỏ cuộc; chàng ngồi xuống chiếc ghế dựa ở gần ngay cửa sổ, kéo một dải lụa dài sột soạt, tung lên đầu gối, ngậm chặt chiếc tẩu giữa hai hàm răng, chàng bất động ngắm nhìn.

Đó thực là một màu thắm đỏ trinh nguyên, như tia nắng trời buổi ban mai - màu sắc tràn ngập niềm vui cao nhã và uy nghiêm, cực kỳ kiêu sa, đúng thứ mà Gray đang tìm kiếm. Nó không phải sự pha trộn các gam màu của lửa, của cánh hoa anh túc, của ánh tím; cũng không hề lẫn thêm một chút gì của ánh sẫm hay thanh thiên để có thể gợn lên chút băn khoăn, lưỡng lự. Đó là sắc đỏ thắm ửng lên như một nét cười, vẻ tuyệt mỹ của ánh phản chiếu nội tâm. Gray trầm ngâm đến độ quên mất là ông chủ hiệu đang đứng chờ sau lưng chàng với vẻ căng thẳng của chú chó săn rình mồi. Đứng chán, ông đành nhắc nhớ sự hiện diện của mình bằng cách xé đánh soạt một miếng vải mẫu.

- Không cần lấy vải mẫu nữa, - Gray đứng lên nói, - tôi lấy thứ lụa này.

- Cả cuộn sao ạ? - Ông chủ hiệu hỏi, băn khoăn một cách kính cẩn. Nhưng Gray lặng thinh nhìn lên trán ông ta khiến ông ta trở nên hơi quá trớn. - Vậy thì, bao nhiêu mét đây?

Gray gật đầu, chậm rãi lấy bút chì viết lên giấy số vải cần mua.

- Hai ngàn mét, - chàng phân vân nhìn lên giá để vải. - Đúng, không dưới hai ngàn mét.

- Hai? - Ông chủ nảy bật lên như lò xo. - Ngàn? Mét? Xin mời ngài ngồi, thưa thuyền trưởng. Ngài có muốn xem thêm vài mẫu vải mới không ạ? Xin theo ý ngài, thưa thuyền trưởng. Diêm đây, thuốc lá cực ngon đây, xin mời ngài. Hai ngàn... Hai ngàn với giá... - Ông ta xướng lên một cái giá chắc như cua gạch và chẳng lấy gì làm thành thật cho lắm, nhưng Gray đang cảm thấy rất hài lòng nên chẳng nghĩ đến chuyện mặc cả gì hết. - Thứ lụa tốt đến lạ lùng, - ông chủ tiếp tục, - thứ hàng siêu hạng không gì sánh nổi, chỉ có ở chỗ chúng tôi thôi đấy ạ.

Cuối cùng, trong niềm hân hoan đến cực điểm của ông chủ hiệu, Gray thỏa thuận với ông nơi chuyển số vải đến, chi phí vận chuyển do chàng chịu. Trả tiền cho ông ta xong, chàng ra về trong sự tiễn rước trọng thị của ông chủ hiệu, như với một vị hoàng đế Trung Hoa. Cũng lúc đó, cách cửa hiệu một con phố, một nhạc công vãng lai đang so dây đàn violoncelle, sao cho cây vĩ mã làm ngân lên những tiếng buồn man mác; người bạn đồng hành của ông ta - chàng nhạc công thổi sáo - thì đang thủ thỉ huýt sáo miệng một khúc ca; khúc hát bình dị của họ làm náo động cả khu phố đang lả đi vì nóng bức, vọng đến tận tai Gray, khiến chàng hiểu ngay ra bước hành động tiếp theo của mình sẽ là gì.

Nói chung, trong những ngày này, chàng lúc nào cũng trong tình trạng phấn chấn cực điểm - một trạng thái giúp chàng dễ dàng đọc rõ mọi ẩn ý, mọi mách bảo của thực tại. Nghe rõ những âm thanh chìm nén văng vẳng như từ một cỗ xe đang chuyển động xa dần, chàng tiến vào tâm điểm của những ấn tượng, những suy ngẫm quan trọng bậc nhất, được gợi nên bởi thứ âm thanh ấy, phù hợp với tính cách của chàng, khiến chàng cảm thấy mọi cái chàng đang bày đặt ra sẽ kết thúc tốt đẹp. Đi qua con hẻm, chàng bước vào cổng ngôi nhà đang có cuộc trình diễn âm nhạc. Đúng lúc đó đám nhạc công lục đục chuẩn bị rời đi; chàng thổi sáo lênh khênh, dáng vẻ khúm núm, kính cẩn vung mũ về phía những ô cửa sổ, nơi vừa bay ra những đồng tiền xu. Chiếc violoncelle cũng đã được kẹp trở lại dưới nách chủ nhân của nó - người lúc này đang quệt mồ hôi trán, chờ chàng thổi sáo.

- Hà, ra bác đấy à, bác Zimmer! - Gray thốt lên, nhận ra người nhạc công vĩ cầm tài ba vẫn thường mua vui mỗi tối cho đám thủy thủ - khách hàng của quán rượu “Tiền chi cho thùng tônô”. - Sao bác lại bỏ chơi vĩ cầm?

- Thưa thuyền trưởng đáng kính, - Zimmer phản đối một cách tự mãn, - tôi chơi được tất cả những gì có thể tạo ra âm thanh và âm điệu... Hồi còn trẻ tôi đã từng là một tay hề âm nhạc đấy chứ. Giờ đây tôi lại bị nghệ thuật lôi cuốn và cay đắng nhận ra rằng mình đã để chết yểu một tài năng hiếm có. Bởi thế, trong sự hối tiếc muộn mằn, tôi say một lúc hai thứ: violoncelle và vĩ cầm. Ban ngày tôi chơi violoncelle, còn đến tối thì vĩ cầm, có nghĩa như thể rằng tôi khóc than, rên rỉ cho tài năng đã chết ấy mà. Ngài đãi tôi một cốc chứ? Violoncelle là Carmen của tôi, còn vĩ cầm là...

- Assol, - Gray nối lời.

Zimmer chưa nghe ra:

- Vâng, - bác ta gật gù, - colo trên mọi loại, thanh la, ống đồng là một chuyện. Nói chung, tôi cần gì?! Cứ để cho bọn nghệ sĩ đồng bóng tha hồ mà làm bộ làm tịch. Tôi thì tôi biết các tiên nga luôn thả mình theo violoncelle và vĩ cầm.

- Mà cái gì ẩn trong cái “Tu-liu-lu” của tôi thế này vậy? - Chàng thổi sáo đã bước tới hỏi, một cậu chàng lêu nghêu, ngộc nghệch, với cặp mắt cừu non xanh biếc và bộ râu vàng hoe. - Nào, hãy nói xem?

- Còn xem từ sáng đến giờ cậu nốc bao nhiêu đã. Có khi chỉ tí chút, khi thì như hũ chìm ấy. Thuyền trưởng ạ, đây là anh bạn đồng hành Diiss của tôi. Tôi kể với cậu ta rằng ngài vung vàng như rác mỗi khi uống rượu, và cậu ta nhất trí mê ngài ngay.

- Vâng, - gã Diiss lên tiếng, - tôi khoái những hành động hào hiệp và hào phóng. Nhưng tôi là một kẻ xu nịnh đấy, xin đừng có tin vào lời phỉnh nịnh hèn hạ của tôi.

- Thế này nhé, - Gray bật cười nói, - tôi có ít thời gian lắm, mà công việc thì rất gấp. Tôi sẽ trả công hậu hĩnh cho các anh. Hãy tập hợp thành dàn nhạc, nhưng không phải những gã bảnh choẹ với điệu bộ diễu hành cứng ngắc, những kẻ chơi nhạc giáo điều thành tật, hay tệ hơn là những kẻ từ các quầy nhạc hơi đã quên ráo cả cái hồn của âm nhạc và dần dà làm tê cóng sàn diễn bởi những âm thanh nhảm nhí của họ, - tuyệt đối không nhé. Hãy tập hợp người của các anh, làm sao cho trái tim giản dị của những chị nấu bếp, những bác đánh xe cũng phải bật khóc; hãy tập hợp những nhạc công vãng lai của các anh lại. Biển và tình yêu không chịu nổi những kẻ cầu kỳ rởm đời. Tôi sẵn lòng ngồi lại với các anh, thậm chí không chỉ để uống một chai, nhưng tôi cần phải đi đã. Tôi còn nhiều việc lắm. Hãy cầm lấy từng này và uống mừng cho chữ cái “A” đi nhé. Nếu các anh hứng thú với đề nghị của tôi, hãy đến tàu “Điều bí mật” tối nay. Nó nằm cách đầu con đập không xa.

- Đồng ý! - Zimmer kêu lên, thừa biết Gray trả công hào phóng như vua. - Diiss, hãy cúi chào, nói “vâng” và hãy quay mũ vì sướng đi! Thuyền trưởng Gray muốn cưới vợ đấy mà!

- Đúng thế, - Gray khẳng định một cách giản dị. - Mọi chi tiết tôi sẽ thông báo cho các anh trên tàu “Điều bí mật”. Các anh phải...

- Vì chữ cái “A”! - Diiss huých khuỷu tay vào Zimmer, nháy mắt với Gray. - Nhưng, có nhiều chữ đến thế trong bảng chữ cái! Xin hãy thưởng thêm đôi chút...

Gray đưa thêm tiền. Các nhạc công rời đi. Khi đó chàng ghé vào văn phòng môi giới ký một đơn đặt hàng bí mật với một số lượng lớn -
thực thi gấp, trong thời hạn sáu ngày. Ngay khi Gray quay về tàu của mình, nhân viên văn phòng môi giới đã lên tàu thủy. Đến tối vải lụa đã được chuyển tới. Gray thuê năm chiếc thuyền buồm kèm theo đội hình thủy thủ. Letika vẫn còn chưa quay về, các nhạc công vãng lai cũng chưa thấy đến; Gray tìm đến bàn luận cùng ông Panten.

Cần nhớ rằng, trong từng ấy năm, Gray đi biển chỉ với cùng một thuyền đội thủy thủ. Thoạt đầu, chàng thuyền trưởng khiến đám thủy thủ kinh ngạc bởi những tuyến đường thay đổi rất bất ngờ, đỗ lại - đôi khi hàng tháng trời - ở những nơi thưa dân cư nhất, chẳng hề buôn bán sầm uất, nhưng dần dà họ cũng nhiễm dần cái Gray tính của chàng. Gray thường cho tàu chạy phải đệm thêm đồ dằn vì từ chối những hợp đồng vận chuyển béo bở bởi không thích thứ hàng hóa được đề nghị chở. Không ai có thể thuyết phục nổi chàng chở xà phòng, đinh, linh kiện máy và những thứ nằm câm lặng một cách u ám trong hầm tàu, những thứ gợi lên những ý niệm vô sinh khí của những nhu yếu tẻ ngắt. Nhưng chàng thích thú chở các loại hoa quả, đồ sứ, súc vật, đồ gia vị, chè, thuốc lá, cà phê, hàng tơ lụa, các giống cây quý: cẩm, đàn hương, cọ. Tất cả những thứ đó đáp ứng nếp quý phái trong tư duy của chàng, tạo ra một môi trường ngoạn mục giàu hình ảnh; chẳng có gì ngạc nhiên khi thuyền đội thủy thủ tàu “Điều bí mật” được uốn theo một nếp nghĩ riêng, thường nhìn nhận với đôi chút cao ngạo tất cả những cái được xét đoán theo kiểu khác, có phủ lớp màn khói của một món lời đơn thuần.

Thế nhưng lần này Gray đã đọc thấy câu hỏi trên từng khuôn mặt của các thủy thủ: người thủy thủ ngốc nhất cũng thừa hiểu rằng, chẳng việc gì tàu của họ phải vào sửa chữa ở lòng sông bên rừng.

Panten dĩ nhiên đã thông báo mệnh lệnh của Gray. Khi Gray bước vào, người trợ tá của chàng đã hút đến điếu thuốc thứ sáu, đang lang thang khắp ca-bin, mụ người đi vì khói thuốc và vấp ngay phải một chiếc ghế. Chiều đã buông; qua lớp cửa mạn đang mở toang, những vệt nắng ánh sáng vàng rực xuyên vào tua tủa, làm lóe lên ánh véc-ni bóng loáng của chiếc mũ lưỡi trai thuyền trưởng.

- Tất cả đã sẵn sàng, - ông Panten sa sầm nói. - Nếu muốn, ngài có thể cho lệnh cuốn neo.

- Lẽ ra ông cần phải hiểu tôi hơn, Panten ạ, - Gray dịu giọng nói. - Những điều tôi làm chẳng có gì là bí hiểm cả đâu. Khi chúng ta thả neo xong ở vũng Liliana, tôi sẽ nói hết để ông rõ, và ông sẽ chẳng cần phải tốn nhiều diêm đến thế cho thứ xì gà tồi kia. Hãy đi cuốn neo đi.

Ông Panten ngượng nghịu bật cười, vuốt lông mày.

- Cái đó tất nhiên là thế, - ông nói, - nói chung, tôi chẳng sao đâu.

Khi ông ta ra khỏi, Gray ngồi bất động một thoáng, mắt hướng về cánh cửa mở, sau đó định thần lại. Ở đây, chàng lúc ngồi xuống, khi lại nằm dài ra, lúc lắng nghe tiếng xích cuốn neo lăn răng rắc cho tàu chuẩn bị vào ụ... nhưng rồi chàng bỗng trở nên suy tư và quay lại chiếc bàn, chàng lấy ngón tay vạch những đường thẳng chớp nhoáng trên lớp vải dầu. Tiếng đập cửa lôi chàng ra khỏi trạng thái bất định, chàng xoay khóa cửa, cho Letika vào. Gã thủy thủ thở hổn hển, bộ dạng như kẻ vừa chạy thoát đúng lúc khỏi án tử hình.

- “Letika, Letika”, tôi tự dặn mình, - gã liến thoắng, - khi tôi từ rào cáp đập chắn sóng nhìn thấy anh em nhảy quanh trục neo, nhổ bọt vào lòng bàn tay. Mắt tôi như mắt đại bàng. Và tôi bay về. Tôi hét gã chèo thuyền khiến gã toát cả mồ hôi vì cuống. Thuyền trưởng, ngài định bỏ lại tôi trên bờ sao?

- Letika, - Gray nói, chăm chú nhìn vào cặp mắt đỏ ngầu của gã, - tôi đã đợi cậu gần hết buổi sáng rồi đấy. Cậu đã dội nước lạnh vào gáy cho tỉnh rượu chưa?

- Giội. Không nhiều bằng số rượu rót vào bụng nhưng có giội. Tất cả đã đâu vào đấy.

- Thì nói đi.

- Chẳng cần phải nói, thưa thuyền trưởng. Đây tất cả ghi ở đây. Ngài cầm lấy mà đọc. Tôi đã rất cố gắng đấy. Tôi đi đây.

- Đi đâu?

- Tôi nhìn thấy sự trách cứ trong mắt ngài, rằng mình còn giội quá ít nước lạnh vào gáy.

Gã quay đi và bước ra với cử động lạ lùng như của người mù. Gray mở tờ giấy, cây bút chì có lẽ đã lấy làm kinh ngạc khi phải nguệch ngoạc ra những nét vẽ như một dãy hàng rào xiêu vẹo lung lay trên mặt giấy thế này. Đây là những gì Letika đã viết: “Làm đúng theo chỉ thị, sau năm giờ tôi đi ra phố. Ngôi nhà mái màu xám có hai cửa sổ bên cạnh; có vườn rau. Người được chỉ định xuất hiện hai lần: một lần đi lấy nước, còn lại là để nhóm bếp. Khi trời tối, tôi đưa mắt nhìn vào cửa sổ, nhưng không thấy gì vì có rèm che”.

Sau đó đến một vài chi tiết về đặc điểm gia đình mà Letika đã dò la được - rõ ràng bằng cách gợi chuyện quanh bàn nhậu. Thế rồi bản báo cáo kết thúc hơi bất ngờ bằng những chữ sau: “Về việc chi tiêu tôi có bỏ ra ít nhiều của mình”.

Thực ra bản báo cáo chỉ nói lại những điều chúng ta đã được biết ở chương I. Gray đặt mảnh giấy lên bàn, huýt sáo gọi người lính gác, lệnh cho anh ta đi gọi ông Panten, nhưng thay vì viên trợ tá, người xuất hiện là thủy thủ trưởng Atwood đang thả ống tay áo xuống.

- Chúng ta đã buông neo ở cạnh con đập, - anh ta nói. - Ông Panten lệnh cho tôi đến hỏi xem ngài định thế nào. Ông ấy đang bận, bị một đám người mang kèn, trống và các thứ đàn vĩ cầm túm quanh. Ngài gọi họ lên tàu phải không ạ? Ông Panten đề nghị ngài ra đó, nói rằng ông chẳng hiểu mô tê gì cả.

- Đúng đấy, anh Atwood, - Gray nói, - đúng là tôi gọi các nhạc công đến đấy. Hãy ra bảo họ tạm thời vào đợi trong khoang thủy thủ. Sau đó ta sẽ tìm cách bố trí chỗ cho họ. Atwood này, nói với họ và thuyền đội rằng mười lăm phút nữa tôi sẽ ra ngoài boong nhé. Cứ tập hợp lại đi. Anh và ông Panten tất nhiên cũng sẽ cùng nghe.

Atwood nhướng lông mày trái như lên cò súng, đứng tựa sườn vào cánh cửa và đi ra.

Mười phút ấy Gray ngồi im lìm, hai tay che mặt; chàng chẳng chuẩn bị, cũng chẳng trù tính điều gì, nhưng lại muốn ngồi im lìm trong suy tư. Cùng lúc đó, cả tàu bồn chồn ngóng đợi chàng với sự hiếu kỳ, đoán định đủ kiểu. Chàng bước ra và nhận thấy trên mọi khuôn mặt sự chờ đợi những điều hoang đường nhất. Vì bản thân coi việc này là hoàn toàn tự nhiên, bình thường nên sự căng thẳng của đám người xa lạ khiến chàng cảm thấy hơi bực mình.

- Chẳng có gì đặc biệt cả đâu, - Gray nói, ngồi lên bậc thang cầu tàu. - Chúng ta dừng ở cửa sông cho đến khi thay xong toàn bộ thừng chão. Các bạn đã thấy số lụa hồng được mang đến rồi đấy. Từ chỗ lụa này, dưới sự chỉ đạo của ông thợ cả làm buồm Blent, ta sẽ trang bị toàn bộ buồm mới cho “Điều bí mật”. Sau đó, ta sẽ lên đường, nhưng đi đâu thì tôi chưa nói được. Dù thế nào, cũng không cách xa đây là bao. Tôi đến với vợ mình. Nàng còn chưa là vợ tôi, nhưng sẽ là như vậy. Tôi cần những cánh buồm đỏ thắm để nàng nhận ra chúng ta từ xa, giống như lời ước định. Tất cả là như vậy. Các bạn thấy đấy, chẳng có gì là huyền bí cả đâu. Và ta dừng lại ở đây nhé!

- Phải đấy, - Atwood nói, nhận thấy qua những gương mặt mỉm cười của đám thủy thủ, rằng họ đang bối rối một cách dễ chịu và chưa biết nói gì. - Sự thể hóa ra là vậy đấy, thưa thuyền trưởng... Chẳng phải việc của chúng tôi bàn luận về chuyện đó. Mọi cái sẽ theo ý ngài. Tôi xin chúc mừng ngài.

- Cảm ơn!

Gray siết thật chặt tay viên thủy thủ trưởng, còn anh ta, với một cố gắng phi thường, đáp lại cái bắt tay ấy khiến chàng thuyền trưởng phải nhượng bộ. Sau đó, mọi người đều tiến lại, nhìn nhau với những ánh mắt rụt rè, ấm áp, lầm bầm những câu chúc mừng. Chẳng ai reo hò, cũng không gây ồn ào - đám thủy thủ cảm thấy có gì đó không đơn giản trong những lời nhát gừng đứt đoạn của chàng thuyền trưởng. Ông Panten thở phào nhẹ nhõm và tươi tỉnh hẳn lên, tựa như gánh nặng trong lòng ông đã tan biến mất. Chỉ riêng một thợ mộc trên tàu có vẻ gì như không hài lòng, uể oải bắt tay Gray, gã sa sầm hỏi:

- Làm sao ngài lại nảy ra được ý đó, thưa thuyền trưởng?

- Như nhát rìu của anh vậy, - Gray nói. - Zimmer, đưa người của bác ra đi.

Người chơi vĩ cầm vỗ vào lưng từng nhạc công đồng nghiệp, kéo bảy người ăn mặc cực kỳ lôi thôi, nhếch nhác ra khỏi đám đông.

- Đấy, - Zimmer nói, - đấy là cây kèn trombone, nó chẳng chơi đâu, mà nã như đại bác ấy. Hai chàng không râu này là những tay kèn tây; họ mà đã cất tiếng là tất cả đều muốn chiến đấu ngay tức thì. Sau đến tay clarinet, kèn đẩy và tay vĩ cầm thứ hai. Tất cả bọn họ -
những bậc thầy cực phách - vây quanh người dẫn đường nhanh nhẹn, có nghĩa là tôi đây. Còn đây là ông chủ chính của đám nghệ sĩ vui vẻ chúng tôi, Fritz, tay đánh trống. Những tay trống, như mọi người biết đấy, thường mang bộ dạng vỡ mộng, nhưng tay này chơi rất nghệ với niềm đam mê hẳn hoi. Có phải mọi cái đều hoàn hảo không, thuyền trưởng Gray?

- Tuyệt, - Gray nói. - Tất cả các bạn sẽ có chỗ ở dưới hầm tàu, nơi chuyến này sẽ tải đủ loại “scherzo”, “adagio”, và “fortissimo”(9). Đề nghị cùng giải tán nhé. Ông Panten, cuốn neo cho tàu chạy thôi. Hai tiếng nữa tôi sẽ thay ông.

(9) Tên các chương đoạn trong nhạc giao hưởng.

Chàng không cảm nhận thấy hai giờ đồng hồ ấy trôi qua, bởi chúng hòa vào thứ âm nhạc nội tâm đã chưa khi nào rời xa tâm trí của chàng, như mạch đập chưa từng rời xa huyết quản. Chàng nghĩ chỉ về một điều, ham muốn, ngóng vọng chỉ về cùng một điều mà thôi. Là con người hành động, trong ý thức, chàng đã tưởng tượng trước được bước tiến của các sự kiện, và chỉ tiếc không thể điều khiển chúng đơn giản và nhanh chóng như đẩy những quân cờ. Diện mạo trầm tĩnh của chàng không gợn lên bất cứ cái cảm giác căng thẳng nào - thứ cảm giác mà tiếng réo của nó, giống như tiếng réo của một quả chuông lớn treo ngang đỉnh đầu đang giáng những tiếng vang váng óc của nó xuống chàng. Điều này khiến chàng cuối cùng phải bắt đầu đếm thầm trong óc: “Một... hai... ba mươi” và v.v... cho đến khi đếm tới: “một nghìn”. Biện pháp này đã có tác dụng; cuối cùng chàng đã có thể tỉnh táo xem xét lại những gì mình đang định làm. Ở đây, cái khiến chàng có đôi chút ngỡ ngàng là chàng chưa thể hình dung được con người nội tâm của Assol ra sao, bởi chưa từng chuyện trò cùng cô. Chàng đã đọc thấy ở đâu đó rằng có thể hiểu được một con người, dù chỉ mơ hồ, nếu tưởng tượng lại con người ấy, hình dung ra nét mặt của người đó. Cặp mắt của Gray đã ánh lên vẻ khác lạ, còn nét môi ẩn sau hàng ria mép thoáng cười nhẹ và dịu dàng khi chàng nhớ lại mọi chuyện. Chàng phá lên cười và đi lên thay cho ông Panten.

Trời đã tối. Ông Panten dựng cổ áo blu-dông lên, đi lại trong buồng hoa tiêu, nói với người cầm lái:

- Sang trái mười lăm rumbo(10), sang trái. Dừng lại: thêm mười lăm nữa.

(10) Đơn vị đo tọa độ đường biển.

Con tàu “Điều bí mật” chạy thuận gió, căng một nửa cánh buồm.

- Ngài biết không, - ông Panten nói với Gray, - tôi thấy hài lòng đấy.

- Về cái gì kia?

- Về chính điều như ngài thôi. Tôi hiểu tất. Ở chính đây, trên cầu tàu này. - Ông nháy mắt tinh quái, ánh tẩu thuốc đang cháy soi rõ

- Nào nào, - Gray nói, chợt đoán ra mọi điều, - ông hiểu được gì nào?

- Biện pháp hữu hiệu nhất để tiến hành buôn lậu, - ông Panten thì thào. - Ai cũng có quyền căng loại buồm mình muốn. Đầu óc ngài thật kỳ tài, ngài Gray!

- Panten tội nghiệp! - Chàng thuyền trưởng nói, không biết nên cáu hay nên cười. - Sự phỏng đoán của ông thật là hóm hỉnh, nhưng chẳng có cơ sở gì hết. Đi ngủ đi. Tôi thề với ông rằng ông nhầm đấy. Tôi sẽ chỉ làm những điều mà tôi đã nói thôi.

Chàng cho ông ta đi ngủ, kiểm tra lại hướng lộ trình của con tàu và ngồi xuống. Lúc này, chúng ta hãy để chàng ở lại đó, bởi chàng đang cần yên tĩnh một mình.