Tên tôi là Đỏ - Chương 11 - Phần 2

 

"Nuri Kính mến," ông gọi một họa sĩ nhợt nhạt lom khom, "dẫn Thầy Siyah của chúng ta "quan sát" xưởng làm việc đi!" 

"Quan sát" là một nghi thức thường lệ trong những cuộc viếng thăm hai tháng một lần của Đức vua tại nơi làm việc của các nhà tiểu họa trong suốt quãng thời gian sôi nổi khi Đức vua muốn theo dõi sát những gì diễn ra tại xưởng làm việc. Với sự trợ giúp của Hazim, Trưởng Ngân khố; Lokman, Trưởng Biên niên sử quan, và Sư phụ Osman, Trưởng ban Trang trí, Đức vua sẽ được báo cáo về việc tại thời điểm bất kỳ nào đó các bậc thầy này đang làm việc với trang nào trong cuốn sách nào, ai mạ vàng bức tranh nào, ai tô màu bức tranh nào, và từng người một, các thợ tô màu, người xếp trang, thợ mạ vàng và những nhà tiểu họa bậc thầy, mà tài năng của họ cho phép họ hoàn thành những điều kỳ diệu, đã tham gia công việc thế nào. Tôi thấy buồn rằng họ vẫn giữ một nghi lễ giả tạo thay cho cái nghi lễ mà nay không còn được thực hiện nữa vì tuổi tác và bệnh tật đã buộc Trưởng Biên niên sử quan Lokman Kính mến. người đã viết hầu hết những cuốn sách được minh họa, phải nằm liệt ở nhà; bởi Thầy Osman thường biến mất trong sự phẫn nộ và giận dữ; bởi bốn thợ cả bậc thầy có tên Kelebek, Zeytin, Leylek và Zarif đều làm việc tại nhà; và bởi Đức vua không còn tràn đầy nhiệt tình giống như đứa trẻ trong xưởng làm việc nữa. Như đã xảy ra với nhiều nhà tiểu họa, Nuri Kính mến ngày càng già đi một cách vô ích, không được trải nghiệm cuộc sống đầy đủ hoặc trở thành một bậc thầy trong nghệ thuật của mình. Tuy nhiên không vô ích nếu ông ta dành những năm tháng đó trên bàn làm việc để lưng trở nên còng: ông ta luôn chú tâm tới những gì đang xảy ra trong xưởng làm việc, tới việc người nào đang làm trang tuyệt mỹ nào. 

Và tôi cũng hăm hở ngắm nghía lần đầu tiên những trang huyền thoại của cuốn Sur-nama, vốn kể lại những nghi lễ cắt bì cho vị hoàng tử của Đức vua. Khi còn ở Ba Tư, tôi đã nghe những câu chuyện về lễ cắt bì kéo dài năm mươi hai ngày này trong đó người dân thuộc mọi ngành nghề, mọi phường hội, cả Istanbul, đều tham dự, thực sự vào thời điểm khi cuốn sách ghi nhớ sự kiện vĩ đại này đang được chuẩn bị. 

Trong bức tranh đầu tiên đặt trước mặt tôi, lấy bối cảnh khu đất được rào cẩn thận của hoàng gia trong lâu đài của Ibrahim Pasha quá cố, Đức vua, Người che chở thế giới này, đang nhìn chăm chú những lễ hội ở khu Hí trường bên dưới với vẻ hài lòng. Khuôn mặt Ngài, thậm chí dù không quá chi tiết đến độ cho phép người ta phân biệt Ngài với người khác chỉ bằng những nét đặc trưng, đã được vẽ một cách khéo léo và với lòng kính trọng sâu sắc. Về bên phải của bức tranh tờ đôi mà trong đó Đức vua được thể hiện ở bên trái có những tể tướng, tổng trấn, các sứ thần Ba Tư, Tatar, Tây vực và Venice đứng dưới những mái che và cửa sổ. Bởi vì họ không phải những quốc vương, nên đôi mắt họ được vẽ một cách vội vàng cẩu thả và không tập trung vào cái gì đặc biệt ngoài cảnh náo nhiệt trên quảng trường đó. Sau này, trong những bức tranh khác, tôi nhận thấy sự sắp xếp và bố cục trang giống nhu vậy được lặp lại cho dù hoa văn trang trí bức tường cây cối và những viên đá màu đất nung được vẽ theo những phong cách và màu sắc khác nhau. Một khi những người sao chép đã viết ra phần chữ rồi, những tranh minh họa đã hoàn tất và cuốn sách đã được đóng gáy rồi thì người đọc, khi giở từng trang, sẽ thấy mỗi lần một hoạt động hoàn toàn khác nhau trong những màu sắc hoàn toàn khác nhau tại Hí trường vốn vẫn nằm dưới cái nhìn chăm chú đó của Đức vua và đám khách của Ngài - những người luôn đứng y hệt như vậy, mãi mãi nhìn vào cùng một khu vực bên dưới. 

Ở đó ngay trước mắt, tôi thấy người ta đang tranh giành nhau hàng trăm tô cơm trộn được đặt trong Hippodrome; tôi thấy những con thỏ và chim còn sống vọt ra từ chỗ con bò quay và làm đám đông đang lao vào đó phải giật mình. Tôi thấy một đám những người thợ cả gò đồng đang ngồi trên một chiếc xe ngựa trước Đức vua, những thành viên trong đó đang nện vào miếng đồng nhưng không bao giờ chạm tới người đang nằm trên xe với chiếc đe đặt ngang trên tấm ngực trần. Tôi thấy những thợ lắp kính đang trang trí kính bằng hoa cẩm chướng và cây bách trong khi họ diễu hành trước Đức vua trên một cỗ xe, những thợ làm bánh kẹo đang đọc to những bài thơ ngọt ngào trong khi cưỡi bọn lạc đà chất đầy những túi đường và bày ra những chiếc lồng chứa những con vẹt làm bằng đường; và những thợ khóa già khoe khoang nhiều loại khóa treo, khóa móc, then cửa, khóa bánh răng trong khi than vãn về những tệ nạn của thời đại mới và những cánh cửa mới. Kelchek, Zeytin, Leylek đã làm những bức tranh vẽ những nhà ảo thuật: Một trong số họ đang làm những quả trứng lăn xuống theo một cây cọc mà không rơi xuống - như thể trên một phiến đá rộng - theo nhịp trống lục lạc do một người khác gõ. 

Trong một cỗ xe khác tôi thấy rõ Tổng trấn Thuyền trưởng Kilic Ali đang buộc những kẻ ngoại đạo bị ông bắt giữ ngoài biển làm một "ngọn núi của bọn ngoại đạo" bằng đất sét; sau đó ông chất tất cả nô lệ lên cỗ xe, và khi đến ngay trước mặt Đức vua, ông ta cho châm ngòi mớ thuốc nổ trong "ngọn núi" đó để chứng minh ông đã biến đất đai của bọn ngoại đạo thành tiếng than khóc và rên rỉ bằng đạn đại bác như thế nào. Tôi thấy những tay đồ tể nhẵn nhụi mặc đồng phục đỏ tía cầm và sử dụng dao phay, cười với những xác cừu đỏ hồng đã cạo sạch lông treo trên móc. Khán giả vỗ tay ủng hộ những người dạy sư tử đang dắt một con sư tử bị xích đến trước mặt Đức vua, khiêu khích và chọc giận nó cho đến khi đôi mắt nó hằn tia máu giận dữ; và ở trang kế tiếp, tôi thấy con sư tử, tiêu biểu cho khối Hồi giáo, đuổi theo một con lợn hồng xám, biểu tượng cho bọn ngoại đạo Thiên chúa giáo xảo quyệt. Tôi ngắm nhìn thỏa thuê một bức tranh vẽ một thợ cắt tóc vừa treo mình lộn ngược trên trần một cửa hàng dựng trên một chiếc xe vừa cạo cho một khách hàng trong khi người phụ tá của ông ta, mặc đồ đỏ, cầm gương và một chiếc thau bằng bạc chứa xà phòng thơm, chờ lấy tiền công; tôi dò hỏi về lai lịch của nhà tiểu họa phi thường chịu trách nhiệm về bức tranh này. 

"Điều thục sự quan trọng là ở chỗ một bức tranh, qua vẻ đẹp của nó, hướng chúng ta đến sự sung mãn của cuộc sống, đến lòng cảm thông, lòng tôn trọng đối với những màu sắc của thế giới mà Thượng đế đã tạo ra, và đến sự chiêm nghiệm và đức tin. Lai lịch của nhà tiểu họa là không quan trọng." 

Có phải Nuri nhà tiểu họa, người rất tinh tế trong ý nghĩ nhiều hơn tôi tưởng, trở nên dè dặt vì ông ta hiểu rằng Enishte của tôi phái tôi đến đây để điều tra, hay ông ta chỉ lặp lại như vẹt lời của Sư phụ Osman Trưởng ban Trang trí? 

Có phải Zarif là người chịu trách nhiệm toàn bộ việc mạ vàng này không?" Tôi hỏi. "Hiện giờ ai làm công việc này thay anh ta?" 

Giờ thì có thể nghe thấy những tiếng la rú của bọn trẻ qua cánh cửa mở ra sân trong. Bên dưới, một trong những người đứng đầu nhóm đang cho đánh roi vào gan bàn chân những thợ học việc chắc đã bị bắt quả tang giấu bột mực đỏ trong túi hoặc miếng vàng trong một cuộn giấy; có lẽ chính là hai đứa mà ban nãy tôi thấy đang run rẩy chờ đợi trong cái lạnh giá này. Những họa sĩ trẻ chộp lấy cơ hội để chế giễu chúng, liền chạy đến cửa nhìn. 

"Vào thời điểm các thợ học việc tô nền của Hí trường đây bằng màu hồng, hoàn tất nó như Thầy Osman đã ra lệnh," Nuri Kính mến nói một cách cẩn trọng. "người anh em Zarif Kính mến của chúng tôi chắc sẽ trở về từ chỗ nào đó anh ta đã tới và sẽ hoàn tất việc mạ vàng trên hai trang này. Thầy của chúng tôi, nhà tiểu họa Osman, muốn Zarif Kính mến tô màu sàn nhà bẩn thỉu của Hí trường mỗi cảnh một khác đi. Màu hồng phấn, xanh Ấn, vàng nghệ hoặc màu cứt ngỗng. Bất cứ ai nhìn bức tranh cũng sẽ nhận ra trong bức tranh đầu rằng đây là một quảng trường bẩn thỉu và phải có màu đất, nhưng trong bức tranh thứ hai và thứ ba, ông muốn màu khác để làm ông vui mắt. Việc tô điểm phải mang đến niềm vui cho mỗi trang." 

Tôi để ý một số tranh trên tờ giấy mà một người phụ tá để lại trong góc phòng. Anh ta đang làm bức tranh khổ một tờ cho cuốn Zafernameh 2, mô tả một hạm đội hải quân đang lên đường vào trận đánh, nhưng rõ ràng là tiếng rú của những người bạn anh ta đang bị đánh vào gan bàn chân đã kích thích tay minh họa này bỏ công việc chạy đi xem. Cái hạm đội được anh ta làm bằng cách vẽ lặp đi lặp lại các con tàu y hệt nhau với một kiểu hình khối thậm chí không có vẻ gì là nổi được trên biển; nhưng, sự giả tạo này, không có gió trên cánh buồm, là do sự thiếu vắng kỹ năng ở người họa sĩ hơn là do kiểu dáng hình khối. Tôi buồn rầu thấy rằng kiểu dáng này đã được cắt ra thô bạo từ một cuốn sách cũ mà tôi không thể nhớ tên, có lẽ là một tập tranh cắt dán. Rõ ràng Sư phụ Osman đã bỏ qua quá nhiều. 

Khi chúng tôi đến bàn làm việc riêng của ông ta, Nuri Kính mến tự hào tuyên bố rằng ông ta đã hoàn thành một phù hiệu hoàng gia mạ vàng cho Đức vua; ông ta đã làm nó trong ba tuần. Tôi thật lòng thán phục phù hiệu và họa tiết dát vàng của Nuri Kính mến, vốn được làm trên một tờ giấy trắng để bảo đảm rằng người nhận nó và lý do gửi nó đi sẽ vẫn nằm trong vòng bí mật. Tôi biết rõ rằng nhiều tổng trấn bốc đồng ở phương Đông đã không dám nổi loạn khi nhìn thấy vẻ tráng lệ quý phái và mạnh mẽ trong phù hiệu của Đức vua. 

Kế đến, chúng tôi thấy những kiệt tác mới đây nhất mà nhà thư pháp Jemal đã chép tay, hoàn tất và để lại; nhưng chúng tôi vội vã lướt qua chúng để tránh tin vào những kẻ chống đối màu sắc và việc trang trí vốn cho rằng nghệ thuật thật sự chỉ bao gồm việc viết thư pháp, và việc trang trí màu sắc cho đẹp mắt hơn chẳng qua chỉ là một biện pháp thứ yếu để nhấn mạnh thêm. 

Nasir Họa sĩ đang bày ra một tấm tranh minh họa lộn xộn mà anh ta có ý định sửa chữa từ một phiên bản Khamse 3 của Nizami có niên đại từ thời các con trai của Tamerlane; bức tranh mô tả Husrev đang nhìn Shirin trần truồng khi nàng tắm. 

Một người nguyên là thợ cả chín mươi hai tuổi, đã gần như mù và chẳng có gì để nói ngoài việc khẳng định rằng sáu mươi năm trước ông đã hôn tay Sư phụ Bizhad ở Tabriz và lúc đó bậc thầy huyền thoại vĩ đại đã mù và say khướt, với đôi bàn tay run rẩy đã chỉ cho chúng tôi nét họa tiết trang trí trên hộp đựng viết mà ông sẽ tặng như một món quà ngày lễ cho Đức vua khi nó được hoàn thành sau ba tháng nữa. 

Một khoảng im lặng ngắn bao trùm toàn bộ xưởng làm việc nơi có gần tám mươi họa sĩ, học trò và thợ học nghề đang làm việc trong những ngăn nhỏ ở tầng dưới. Đây là khoảng im lặng sau lúc đánh đòn, tôi đã nhiều lần trải qua những khoảng lặng tương tự; một sự im lặng có lúc bị phá vỡ bởi tiếng cười cố nén hoặc một lời nhận xét hóm hỉnh, có lúc bởi vài tiếng thổn thức hoặc tiếng rên rỉ cố nén của cậu trai bị đòn trước khi cơn khóc của cậu gợi cho những nhà tiểu họa đã thành nghề nhớ lại những trận đòn chính họ từng phải chịu khi còn là thợ học việc. Nhưng vị thầy chín mươi hai tuổi gần như mù này đã khiến tôi cảm nhận một điều gì đó sâu sắc hơn trong thoáng chốc, ở đây, xa khỏi mọi trận đánh và sự náo loạn: cảm giác rằng mọi thứ đang đến hồi kết thúc. Ngay trước ngày tận thể, cũng sẽ có một sự im lặng như thế này. 

Việc vẽ tranh là sự im lặng của tư tưởng và âm nhạc của thị giác. 

Khi tôi hôn tay Sư phụ Osman để tạm biệt, tôi cảm thấy không chỉ lòng kính trọng sâu sắc đối với ông mà còn cả một tình cảm khiến linh hồn tôi xáo động: lòng thương hại pha lẫn sùng kính dành cho một vị thánh, một cảm giác phạm tội lạ kỳ. Điều này có lẽ bởi vì Enishte của tôi - người muốn các họa sĩ, dù công khai hay bí mật, hãy bắt chước những phương pháp của các bậc thầy Tây vực - là đối thủ của ông. 

Bất chợt tôi cũng cảm thấy rằng có lẽ đây là lần cuối tôi gặp được vị thầy vĩ đại này còn sống, và trong trạng thái bối rối muốn làm vui lòng và cổ vũ thầy, tôi đã hỏi một câu: 

"Thưa thầy đáng kính, điều gì phân biệt nhà tiểu họa đích thực với nhà tiểu họa bình thường?" Tôi cho rằng vị Trưởng ban Trang trí, người quá quen thuộc với những câu hỏi bợ đỡ thế này, sẽ cho tôi một câu trả lời qua quít và ông hiện đang trong trạng thái hoàn toàn quên mất tôi là ai.

"Không hề có một phương pháp nào có thể phân biệt nhà tiểu họa vĩ đại với nhà tiểu họa bất tài và bất tín," ông nói với tất cả sụ nghiêm túc. "Điều này thay đổi theo thời gian. Những tài năng và đạo đức mà anh ta dựa vào để đối mặt với cái ác vốn đe dọa nghệ thuật của chúng ta mới là điều quan trọng. Ngày nay, để xác định một họa sĩ trẻ có tài thực sự đến đâu, ta sẽ hỏi anh ta ba câu hỏi." 

"Những câu hỏi đó là gì?" 

"Anh ta có tin, dưới tác động của lề thói gần đây cũng như dưới ảnh hưởng của người Trung Hoa và châu Âu, rằng anh ta phải có một kỹ thuật vẽ độc đáo, một phong cách riêng của anh ta không? Là một người trang trí, liệu anh ta có muốn có một cung cách, một khía cạnh khác hẳn những người khác không, và liệu anh ta có nỗ lực chứng minh điều này bằng cách ký tên đâu đó trên tác phẩm của mình giống như những bậc thầy Tây vực không? Để xác định một cách chính xác những điều này, trước tiên ta sẽ hỏi anh ta một câu hỏi về "phong cách" và "chữ ký." 

"Rồi sau đó?" tôi kính cẩn hỏi. 

"Sau đó ta sẽ muốn biết nhà trang trí này cảm thấy như thế nào về những cuốn sách bị đổi chủ, bị sút chỉ, và những bức tranh của chúng ta đang được sử dụng trong những cuốn sách khác và trong những thời đại khác sau khi các hoàng đế và quốc vương, những người đặt làm ra chúng, đã chết đi. Đây là một vấn đề tế nhị đòi hỏi một câu trả lời bất chấp nó làm vui lòng hay gây bực bội cho ta. Vì vậy, ta sẽ hỏi nhà minh họa này một câu hỏi về thời giảm - thời gian của nhà minh họa và thời gian của đấng Allah. Cậu có theo kịp ta không, cậu bé?" 

Không, nhưng tôi không trả lời như thế. Thay vào đó, tôi hỏi, "Còn câu hỏi thứ ba?" 

"Câu hỏi thứ ba sẽ là "phận mù!" Sư phụ Osman nói, sau đó ông im lặng như thể điều này không cần giải thích. 

"Phận mù là sao?" tôi bối rối hỏi. 

"Phận mù là sự im lặng. Nếu cậu kết hợp những gì ta vừa nói câu hỏi thứ nhất và câu hỏi thứ hai, thì "phận mù" sẽ hiện ra. Nó là mức xa nhất mà người ta có thể đến được trong nghề minh họa; nó là việc thấy được những gì hiện ra từ cõi u minh của đấng Allah." 

Tôi không nói nữa. Tôi bước ra ngoài. Tôi bước xuống những bậc thang lạnh giá không chút vội vã. Tôi biết rằng tôi sẽ hỏi Kelebek, Zeytin và Leylek ba câu hỏi của vị thầy vĩ đại này, không chỉ vì muốn có chuyện để nói, mà còn để hiểu rõ hơn những nhân vật huyền thoại sống này, vốn là người cùng thời với tôi. 

Tuy nhiên tôi không đến nhà của những thợ cả trang trí đó ngay. Tôi gặp Esther gần khu cu trú Do Thái tại một khu chợ mới nhìn xuống ngã ba sông Halic và eo Bosphorus. Esther đang rất bồn chồn trong bộ đồ màu hồng mà chị buộc phải mặc do chị là một người Do Thái, với thân hình to lớn đầy sinh lực của mình, miệng chị ta không ngớt động đậy, và chân mày cùng đôi mắt chị liên tục nháy nhó ra hiệu cho tôi; thực ra đấy là cung cách của chị ta lúc ở giữa những phụ nữ nô lệ đi mua sắm, những phụ nữ mặc áo trùm thùng thình của những khu nghèo khổ, giữa những đám đông đang chăm chú vào đống cà rốt, mộc qua, những bó hành và củ cải. Chị ta nhét lá thư tôi đưa cho vào quần với một động tác thành thạo và bí ẩn, như thể cả chợ này đang theo dõi chúng tôi. 

Chị nói với tôi rằng Shekure đang nghĩ đến tôi. Chị nhận tiền công và khi tôi nói, "Làm ơn đưa nó gấp giùm," thì chị ta cho thấy rằng chị ta còn hàng đống việc phải làm bằng cách phác một cử chỉ về phía mớ đồ của chị và nói chị chỉ có thể giao lá thư cho Shekure trước buổi trưa. Tôi yêu cầu chị nói với Shekure rằng tôi sẽ đến thăm ba nhà tiểu họa trẻ tuổi và nổi tiếng nọ.


--------------------------------
1 Ihya Ulum al- Din: (Phục sinh của khoa học tôn giáo). Tác phẩm của Imam Gazzali (1058-1111), được đọc nhiều nhất trong thế giới Ẳ Rập sau kinh Koran, viết về những đòi hỏi của đức tin, những kiến thức cần thiết của đời người, những đức tính cần có và những thói xấu phải khắc phục và việc chăm lo đời sống linh hồn. 

2 Zafernameh: Sách các chiến thắng. 

3 Khamse: bộ ngũ thư của Nizami, gồm Makhzan al-Asrar (Kho tàng những bí ẩn) Husrev o Shirin, Leyla o Mejnun, Haft peykar (Bảy nhan sắc) và Eskandamama (Chuyện Alexander Đại đế).