Tên tôi là Đỏ - Chương 26 - Phần 2


Tôi không trả lời thư cho Hasan. Cho dù hôm nay anh ta đến chỗ quan tòa thực, tôi vẫn không tin rằng những người mà chú ấy và cha chú ấy tập hợp được sẽ xông đến nhà tôi ngay lập tức. Nếu thực sự muốn làm như vậy, chú ấy đã không viết thư cho tôi và chờ trả lời. Chắc chắn chú ấy đang chờ tôi trả lời, và khi thư hồi âm không tới, chú ấy sẽ điên lên. Chỉ khi đó chú mới tập hợp người và chuẩn bị bắt cóc tôi. Đừng nghĩ là tôi hoàn toàn không sợ chú ấy. Nhưng, tôi trông cậy Siyah sẽ bảo vệ tôi. Dù sao, hãy để tôi nói cho bạn biết ý nghĩ đang có trong lòng tôi lúc này: Tôi tin rằng tôi không quá sợ Hasan vì tôi cũng yêu chú ấy. Nếu bạn phản đối và tự nhủ, "Giờ thì cô yêu ai?" Tôi nhận thấy bạn có lý. Trong suốt những năm chúng tôi sống chung một nhà chờ đợi chồng tôi trở về, không phải tôi không nhận ra người đàn ông này đáng khinh, yếu đuối và ích kỷ đến thế nào. Nhưng giờ Esther nói với tôi rằng chú ấy kiếm được rất nhiều tiền - và nhìn cái nhướn mày của chị ta tôi có thể biết lúc nào chị ta nói thật - vì chú ấy có tiền, và kèm theo đó là sự tự tin, một Hasan độc đoán chắc chắn đã biến mất, làm lộ ra một tính khí đen tối kỳ lạ, giống như của âm hồn, khiến chú ấy hấp dẫn tôi. Tôi nhìn ra khía cạnh này của chú ấy qua những lá thư chú kiên trì gửi cho tôi. 

Cả Siyah lẫn Hasan đều đau khổ vì yêu tôi. Siyah đã bỏ đi, phiêu bạt suốt mười hai năm. Người kia, Hasan, gửi thư cho tôi mỗi ngày, ở các góc thư chú ấy vẽ chim chóc với linh dương. Thoạt tiên tôi sợ chú ấy, nhưng sau đó, tôi thích đọc tới đọc lui những lá thư của chú. 

Vì tôi biết Hasan hết sức tò mò về mọi thứ có liên quan đến tôi nên tôi không ngạc nhiên khi chú biết tôi thấy xác chồng tôi trong mơ. Điều tôi nghi ngờ là chuyện Esther đã để Hasan đọc những lá thư tôi gửi cho Siyah. Đó là lý do tôi không trả lời cho Siyah qua Esther. Bạn biết rõ hơn tôi những nghi ngờ của tôi có lý hay không. 

"Tụi con đi đâu?" tôi hỏi khi bọn trẻ quay trở lại. 

Chúng hiểu ngay tôi không giận thật. Một cách kín đáo, tôi kéo Shevket sang một bên, tới bên chiếc tủ. Tôi bế nó lên đùi. Tôi ôm đầu, cổ và gáy nó. 

"Con bị lạnh đấy, con cưng," tôi nói. "Đưa mẹ hai bàn tay dễ thương của con để mẹ sưởi cho..." Hai tay nó bốc mùi khó chịu, nhưng tôi không mắng, ép đầu nó vào ngực, tôi ôm chặt nó hồi lâu. Lát sau nó ấm lên, vươn vai giống một con mèo con, rên rỉ sung sướng. 

"Con yêu mẹ nhiều lắm, phải không?" 

"Ummmhmmm ." 

" Đó có phải là "vâng" không?" 

"Vâng." 

"Hơn bất cứ ai?" 

"Vâng." 

"Vậy mẹ sẽ nói với con chuyện này," tôi nói như thể đang tiết lộ một bí mật. "Nhưng con không được nói với ai, nghe?" tôi thì thầm vào tai nó: "Mẹ yêu con nhất trên đời, con biết không?" 

"Hơn cả Orhan nữa hả?" 

"Hơn cả Orhan nữa. Orhan còn nhỏ, giống như một chú chim non, nó chưa hiểu gì hết. Con thông minh hơn, con hiểu được. Tôi hôn và ngửi tóc nó. "Vậy mẹ sẽ nhờ con một chuyện. Con nhớ con đã bí mật đưa cho Siyah mẩu giấy trắng hôm qua không? Con sẽ làm giống như vậy bữa nay, nghe?" 

"Ông ta là người đã giết cha đó." 

"Cái gì?" 

"Ông ta giết cha con. Chính ông ta nói vậy hôm qua trong ngôi nhà của ông Do Thái bị treo cổ." 

"Ông ta đã nói cái gì?" 

" "Ta đã giết cha cháu," ông ta nói. "Ta đã giết nhiều người", ông ta nói vậy." 

Bất ngờ có điều gì đó xảy ra. Shevket tuột khỏi đùi tôi và bắt đầu khóc. Tại sao đứa bé này bây giờ lại khóc? Tôi thú nhận, tôi chắc đã không điều khiển được mình nên tát nó. Tôi không muốn ai nghĩ rằng tôi sắt đá. Nhưng làm thế nào nó có thể nói một điều bậy bạ như thế về một người đang chuẩn bị cưới tôi - và luôn nghĩ đến sự an vui cho lũ trẻ. 

Đứa con trai bé nhỏ không cha tội nghiệp của tôi vẫn khóc, và lập tức tôi hết sức bối rối. Tôi cũng chực trào nước mắt. Chúng tôi ôm nhau. Thỉnh thoảng nó nấc lên. Cái tát này đáng để khóc nhiều vậy sao? Tôi vuốt tóc nó. 

Chuyện là như vầy: Ngày hôm qua, như bạn biết đó, ngẫu nhiên tôi nói với cha tôi rằng tôi mơ thấy chồng tôi đã chết. Thực sự như đã thường xuyên xảy ra trong bốn năm chồng tôi không về sau cuộc chiến với người Ba Tư, tôi vẫn thoáng mơ thấy anh ấy, và cũng có một xác chết, nhưng anh ấy là một xác chết sao? Đây là một điều bí ẩn đối với tôi. 

Những giấc mơ luôn được sử dụng làm phương tiện cho những mục đích khác. Ở Bồ Đào Nha, xứ sở mà bà nội của Esther đã bỏ đi, có vẻ như giấc mơ được dùng làm cái cớ để chứng minh những kẻ tà giáo đã gặp gỡ và làm tình với Quỷ sứ. Chẳng hạn, thậm chí nếu tổ tiên của Esther chối bỏ gốc Do Thái của họ bằng cách tuyên bố, "Chúng tôi đã trở thành dân Công giáo như các bạn," thì những kẻ tra tấn thuộc dòng Tên của Giáo hội Bồ Đào Nha cũng vẫn không tin, chúng sẽ tra tấn họ, buộc họ mô tả những âm hồn và ma quỷ trong giấc mơ của họ, rồi gán cho họ những giấc mơ mà họ không hề có. Sau đó chúng sẽ buộc người Do Thái thú nhận những giấc mơ này để cuối cùng họ có thể đóng cọc thiêu người Do Thái. Theo cách này, ở xứ đó người ta có thể khai thác những giấc mơ, để chứng tỏ kẻ khác đã giao cấu với Quỷ và để buộc tội và kết án người Do Thái. 

Những giấc mơ là tốt cho ba việc: 

ALIF: Bạn muốn một điều gì đó những bạn không thể hỏi xin được. Vì vậy bạn sẽ nói rằng bạn mơ thấy nó. Theo cách này, bạn có thể đạt được những gì bạn muốn mà không phải mở miệng hỏi xin. 

BA: Bạn muốn hại ai đó. Chẳng hạn, bạn muốn vu khống một phụ nữ. Vì vậy bạn sẽ nói rằng một phụ nữ như-thế-như-thế phạm tội ngoại tình hoặc rằng một viên chức như-thế-như-thế ăn cắp rượu bằng cái bình. Tôi mơ thấy chuyện đó, bạn chỉ cần nói vậy. Bằng cách này, cho dù không tin bạn, nhưng người ta hầu như không quên việc đề cập đến hành động tội lỗi. 

DJIM: Bạn muốn điều gì đó, nhưng thậm chí bạn không biết đó là cái gì. Vì vậy bạn sẽ mô tả một giấc mơ lộn xộn. Lập tức gia đình hoặc bạn bè bạn sẽ giải thích giấc mơ và cho bạn biết bạn muốn có gì hoặc họ có thể làm gì cho bạn. Chẳng hạn, họ sẽ nói: Bạn muốn có một ông chồng, một đứa con, một ngôi nhà... 

Những giấc mơ chúng ta kể không bao giờ là những giấc mơ chúng ta thực sự thấy trong giấc ngủ của mình. Khi người ta nói họ "đã thấy nó," đơn giản là họ mô tả giấc mơ "mà họ mơ thấy" giữa ban ngày, và luôn có một mục đích tiềm ẩn đằng sau. Chỉ có kẻ ngốc mới tả những giấc mơ ban đêm thực sự một cách chính xác như họ thấy. Nếu bạn làm thế, mọi người sẽ giễu cợt bạn hoặc, như ta vẫn thấy, giải thích giấc mơ thành một điềm xấu. Không ai coi trọng những giấc mơ thực sự, kể cả những người mơ thấy chúng. Hoặc, làm ơn nói nghe xem, bạn có vậy không? 

Qua giấc mơ mà tôi đã kể lại một cách lơ đãng, tôi ngụ ý có thể chồng tôi đã chết thật. Dù ban đầu cha tôi không chấp nhận điều này là dấu hiệu của sự thật, nhưng sau khi dự đám tang, ông bất ngờ bị thuyết phục bởi chứng cứ của giấc mơ, và kết luận rằng chồng tôi thực sự đã chết. Vì vậy mọi người không chỉ tin rằng chồng tôi, người gần như chưa hề chết bốn năm qua, đã chết trong một giấc mơ, tuy họ có thể cũng chưa dám chắc về cái chết của anh ấy nếu như nó không được thông báo chính thúc. Lúc đó chỉ có bọn trẻ thực sự nhận ra rằng chúng đã mồ côi cha. Chúng thực sự bắt đầu thấy đau lòng. 

"Con có bao giờ chiêm bao chưa?" Tôi hỏi Shevket. 

"Có", nó mỉm cười đáp. "Cha mình không về, rồi cuối cùng con cưới mẹ." 

Cái mũi nhỏ nhắn, mắt đen và đôi vai rộng của nó giống tôi hơn là cha nó. Đôi lúc tôi cảm thấy có tội rằng mình đã không thể truyền cho bọn trẻ vầng trán rộng và cao của cha chúng. 

"Vậy con chơi tiếp trò kiếm sĩ, với em đi." 

"Tụi con chơi thanh kiếm cũ của cha được không?" 

"Được." 

Tôi nhìn lên trần một lúc lâu, lắng nghe tiếng kiếm của bọn trẻ chạm nhau, trong khi cố dập tắt nỗi sợ hãi và lo lắng đang dâng lên trong lòng. Tôi xuống bếp nói với Hayriye: "Cha tôi muốn có món xúp cá nãy giờ rồi. Có lẽ tôi phải nhờ chị đến cảng Galleon. Sao chị không lấy ra mấy xâu trái cây khô mà Shevket thích và cho mỗi đứa một ít." 

Trong khi Shevket ăn trong bếp, Orhan với tôi lên lầu. Tôi bế nó lên đùi và hôn vào cổ nó. 

"Con mồ hôi đầm đìa này" tôi nói. "Có chuyện gì vậy?" 

"Shevket lấy cây gươm đỏ của chú đánh con." 

"Bầm tím rồi nè," tôi vừa nói vừa sờ chỗ đó. "Con có đau không? Shevket hư quá. Nghe mẹ nói này. Con rất thông minh và nhạy cảm. Mẹ muốn nhờ con một việc. Nếu con làm những gì mẹ dặn, mẹ sẽ nói cho con một bí mật mà mẹ sẽ không nói với Shevket hay bất cứ ai khác." 

"Gì vậy mẹ?" 

"Con thấy mẩu giấy này không? Con đi đến chỗ ông ngoại, mà không để ông thấy, rồi nhét mẩu giấy này vào tay Siyah Kính mến. Con hiểu không?" 

"Dạ hiểu." 

"Con làm nghe?" 

"Bí mật là gì vậy?" 

"Cứ đưa chú ấy mẩu giấy," tôi nói, hôn cổ nó lần nữa, chỗ đó có mùi dễ chịu. 

Nhân nói về mùi thơm, đã lâu rồi Hayriye không đưa bọn trẻ đến nhà tắm công cộng. Chúng không đi từ khi cái giống của Shevket biết cứng lên trước mặt những phụ nữ ở đó. 

"Mẹ sẽ nói bí mật cho con sau." Tôi hôn nó. "Con rất thông minh và xinh đẹp. Shevket chỉ gây phiền. Nó còn dám giơ tay đánh lại mẹ nữa. 

"Con không đưa cái này đâu," nó nói. "Con sợ Siyah Kính mến, ông ta là người giết cha con đó." 

"Shevket nói vậy với con, phải không?" tôi nói. "Mau xuống nhà bảo nó lên đây ngay." 

Orhan có thể thấy sự thịnh nộ trên mặt tôi. Kinh hãi, nó tuột khỏi đùi tôi và chạy khỏi phòng. Có lẽ nó hơi vui vì Shevket gặp rắc rối. Lát sau, cả hai đứa trở vào đầy bối rối và xấu hổ. Shevket một tay cầm xâu trái cây khô, tay kia cầm thanh gươm. 

"Con nói với em là Siyah đã giết cha con," tôi nói. "Mẹ không muốn con nói như thế trong nhà này lần nữa. Hai đứa phải tôn trọng và yêu mến Siyah. Các con hiểu mẹ không? Mẹ sẽ không để các con sống cả đời mà không có cha." 

"Con không cần ông ấy. Thà con về nhà mình, chỗ chú Hasan, rồi chờ cha con về." Shevket nói thẳng thừng. 

Điều này khiến tôi quá giận đến độ tôi phát vào mông nó. Nó không để thanh gươm xuống; mà thanh gươm rơi khỏi tay nó. 

"Con muốn cha," nó nói trong nước mắt. 

Nhưng tôi còn khóc nhiều hơn nó. 

"Con không còn cha nữa, cha sẽ không về." tôi nói trong nước mắt. "Các con mồ côi cha rồi, các con không hiểu sao, hai đứa khốn khổ." Tôi khóc quá nhiều đến độ tôi sợ trong nhà nghe thấy. 

"Tụi con không khốn khổ". Shevket vừa nói vừa khóc. 

Ba mẹ con khóc hồi lâu. Nước mắt làm dịu lòng tôi và tôi có cảm giác rằng tôi khóc bởi vì nó khiến tôi trở thành người tốt hơn. Trong khi cùng khóc, chúng tôi ôm chặt nhau và nằm trên nệm. Shevket rúc đầu vào ngực tôi như để ngủ. Đôi khi nó rúm vào tôi, như thể chúng tôi bị dán dính vào nhau, nhưng tôi có thể cảm thấy rằng nó không ngủ. Hẳn là tôi đã ngủ gật với chúng, chỉ có điều đầu óc tôi vẫn nghĩ đến những gì đang xảy ra dưới nhà. Tôi có thể ngửi thấy mùi thơm của cam đang sôi. Tôi ngồi bật dậy trên giường và gây tiếng động khiến bọn trẻ thức giấc.

"Xuống nhà, Hayriye cho tụi con ăn." 

Tôi còn một mình trong phòng. Bên ngoài tuyết bắt đầu rơi.Tôi cầu xin Allah giúp đỡ. Rồi tôi mở kinh Koran, và sau khi đọc một lần nữa đoạn trong chương Aal-e-Imran 1 nói rằng những ai bị giết trong chiến trận, những ai bị giết trên con đường của Allah, sẽ đến với Người, tôi thấy nhẹ nhõm không còn ưu tư về người chồng quá cố nữa. Cha tôi có cho Siyah xem bức chân dung Đức vua chưa hoàn tất không? Cha tôi tuyên bố rằng bức chân dung này sống động đến độ bất cứ ai nhìn nó sẽ phải quay mắt đi vì sợ hãi, như đã từng xảy ra với những ai cố nhìn thẳng vào mắt Đức vua. 

Tôi gọi Orhan, và không bế nó lên đùi tôi, tôi hôn nó thật lâu lên trán, đầu và má. "Bây giờ, không được sợ, con đưa miếng giấy này cho Siyah, nhưng đừng để cho ông ngoại thấy. Con hiểu không?" 

"Răng con lung lay." 

"Khi nào con quay lại, nếu con muốn, mẹ sẽ nhổ cho," tôi nói. "Con cứ tha thẩn đến chỗ chú ấy. Chú sẽ không biết làm gì và sẽ ôm con. Lúc đó con bí mật nhét tờ giấy này vào tay chú ấy. Con hiểu ý mẹ không?" 

"Con sợ." 

"Chẳng có gì phải sợ cả. Nếu không phải Siyah, thì con biết ai muốn làm cha con thay vì chú ấy không? Chú Hasan đó! Con có muốn chú Hasan trở thành cha con không?" 

"Không." 

"Được rồi, vậy con di đi, Orhan thông minh xinh đẹp của mẹ", tôi nói. "Nếu không, coi chừng đó, mẹ sẽ giận cho coi... Và nếu con khóc, mẹ sẽ càng giận hơn." 

Tôi xếp lá thư nhiều lần cho nhỏ lại, rồi nhét vào bàn tay bé xíu của nó đang xòe ra một cách vô vọng và cam chịu. Allah, xin hãy giúp con để những đứa trẻ mất cha này không bị bỏ rơi phải tự nuôi thân. Tôi dắt nó đến cửa, nắm tay nó. Nơi ngưỡng cửa một lần nữa nó nhìn tôi đầy sợ hãi. 

Tôi nhìn nó qua lỗ nhìn trộm khi nó đi những bước ngập ngừng về phía trường kỷ, đến gần cha tôi và Siyah, dừng lại và ngập ngừng giây lát, không biết phải làm gì. Nó nhìn trở lại cái lỗ để tìm tôi. Nó bắt đầu khóc. Nhưng với một nỗ lực cuối cùng nó cũng ngồi lên được đùi của Siyah. Siyah, đủ thông minh để hưởng quyền làm cha đứa con tôi, không hoảng hốt khi thấy Orhan khóc một cách khó hiểu trên lòng anh và anh kiểm tra xem có cái gì trong tay thằng bé không. 

Orhan trở lại dưới cái nhìn ngạc nhiên của cha tôi, và tôi chạy đến ôm nó, bế nó lên đùi tôi, hôn nó thật lâu. Tôi đưa nó xuống nhà vào bếp và cho nó món nho khô mà nó rất thích. 

"Hayriye, dẫn bọn trẻ ra cảng Galleon mua ít cá đối làm xúp ở tiệm của Kosta. Cầm mấy đồng bạc này mà mua cá, nếu còn tiền lẻ thì mua cho Orhan ít trái vả và dâu tây khô trên đường về, mua cho Shevket bánh đậu xanh nướng và xúc xích tẩm đường với quả óc chó. Dẫn tụi nó đi loanh quanh chỗ nào chúng thích cho đến buổi cầu kinh tối, nhưng cẩn thận coi chừng chúng bị cảm lạnh." 

Sau khi họ đi, sự yên tĩnh trong ngôi nhà khiến tôi thấy dễ chịu, tôi lên lầu lấy ra một chiếc gương nhỏ do cha chồng tôi làm và chồng tôi tặng tôi làm quà. Tôi giấu nó giữa những áo gối có mùi oải hương. Tôi treo nó lên, nếu nhìn mình trong gương từ xa, hoặc di chuyển khéo léo một tí, tôi có thể thấy cả thân hình tôi. Chiếc áo lót đỏ thật hợp với tôi. Nhưng tôi cũng muốn mặc chiếc áo cánh màu tía của mẹ tôi, vốn nằm trong mớ vật dụng xuất giá của bà. Tôi lấy ra chiếc áo trùm màu hồ trăn mà bà ngoại tôi đã thêu những bông hoa, thử mặc vào, nhưng nó không vừa ý tôi. Khi mặc thử nó bên trong chiếc áo cánh màu tía, tôi cảm thấy một cơn ớn lạnh; tôi rùng mình, và ngọn nến run theo tôi. Dĩ nhiên trùm ngoài cùng là cái áo choàng viền lông thú, nhưng đến phút cuối tôi đổi ý và lặng lẽ đi qua hành lang, tôi lấy ra chiếc áo khoác len màu xanh da trời rộng và dài của mẹ tôi cho và mặc vào. Ngay lúc đó tôi nghe có tiếng động ngoài cửa và thấy kinh hoàng: Siyah đang ra về! Tôi lẹ làng cởi chiếc áo cũ của mẹ tôi rồi mặc chiếc áo đỏ viền lông của tôi vào. Nó chật ở vòng ngực, nhưng tôi thích, sau đó tôi đeo tấm mạng trắng và mềm nhất, hạ xuống che kín mặt. 

Dĩ nhiên Siyah Kính mến chưa về; tôi đã để cho sự hoảng hốt đánh lừa. Nếu tôi ra ngoài bây giờ, tôi có thể nói với cha tôi là tôi đi mua cá với bọn trẻ. Tôi bước nhẹ xuống thang như một con mèo. 

Tôi đóng cửa - cạch một tiếng - giống một con ma. Tôi lặng lẽ đi qua sân và khi ra đến ngoài đường, tôi thoáng quay lại nhìn ngôi nhà. Nhìn qua lớp mạng, nó có vẻ như không còn là ngôi nhà của chúng tôi nữa. 

Không có ai trên đường, cả một con mèo cũng không. 

Những bông tuyết nhảy múa trong không trung. Rùng mình, tôi bước vào khu vườn hoang, nơi ánh mặt trời không bao giờ đến. Nó bốc mùi lá mục, mùi ẩm ướt và cái chết; nhưng khi tôi bước vào nhà của Người Do Thái bị treo cổ, tôi cảm thấy như đang ở trong nhà mình. Người ta đồn rằng thần thánh gặp nhau ở đây mỗi đêm, đốt lò và tiệc tùng. Tôi giật mình khi nghe tiếng bước chân mình trong ngôi nhà trống này. Tôi chờ, bất động. Tôi nghe một âm thanh trong vườn, nhưng sau đó mọi thứ chìm vào im lặng. Tôi nghe tiếng chó sủa gần đó. Tôi nhận ra tiếng mọi con chó trong khu tôi sống qua tiếng sủa của chúng, nhưng tôi không nhận ra được con chó này. 

Trong quãng im lặng kế đó, tôi cảm thấy có một ai khác trong ngôi nhà, tôi liền đứng bất động để anh ta không thể nghe tiếng bước chân tôi. Những người lạ nói chuyện khi họ đi qua trên đường tôi nghĩ đến Hayriye và bọn trẻ. Tôi cầu trời cho chúng đừng bị nhiễm lạnh. Trong khoảng im lặng kế tiếp, dần dần tôi cảm thấy hối tiếc. Siyah không đến. Tôi đã phạm một sai lầm, và tôi phải quay về nhà trước khi lòng tự ái của tôi bị tổn thương hơn nữa. Kinh khủng, tôi tưởng tượng rằng Hasan đang theo dõi tôi, sau đó thì tôi nghe có tiếng chuyển động trong vườn. Cánh cửa mở. 

Tôi vội thay đổi vị trí. Tôi không biết tại sao mình làm thế, nhưng khi tôi đứng sang bên trái cửa sổ mà qua đó ánh sáng yếu ớt từ khu vườn chiếu vào, tôi nhận ra rằng Siyah có thể thấy tôi, theo lối nói của cha tôi, "trong những bí ẩn của bóng tối." Tôi che mặt bằng tấm mạng và chờ, lắng nghe tiếng bước chân anh ấy. 

Siyah bước qua ngưỡng cửa và thấy tôi, bước vài bước nữa rồi dừng lại. Chúng tôi đứng cách nhau năm bước và nhìn nhau. Trông anh khỏe khoắn và mạnh mẽ hơn so với khi tôi thấy anh qua lỗ nhìn trộm. Im lặng. 

"Giở tấm mạng ra," anh thì thầm, "Làm ơn đi mà." 

"Tôi đã có chồng. Tôi đang chờ chồng tôi trở về." 

"Giở tấm mạng ra đi," anh nói vẫn với giọng như cũ. "Chồng em không bao giờ về đâu." 

"Anh thu xếp gặp tôi ở đây để nói điều đó sao?" 

"Không, anh nói thế để có thể nhìn em. Anh đã nghĩ về em suốt mười hai năm qua. Giở tấm mạng ra đi, em yêu, hãy cho anh nhìn em dù chỉ một lần." 

Tôi gỡ nó ra. Tôi sung sướng khi anh im lặng ngắm nghía khuôn mặt tôi và nhìn thật sâu vào mắt tôi hồi lâu. 

"Có chồng và làm mẹ đã khiến em đẹp hơn nhiều. Và khuôn mặt em hoàn toàn khác những gì anh nhớ được." 

"Anh nhớ về tôi ra sao?" 

"Trong nỗi đớn đau, bởi vì khi anh nghĩ về em, anh không thể không nghĩ rằng những gì anh nhớ được không phải là em mà là một sự tưởng tượng. Trong thời niên thiếu của chúng mình, em có nhớ mình từng bàn về Husrev với Shirin, họ đã yêu nhau sau khi thấy hình ảnh của nhau như thế nào không? Tại sao Shirin không yêu chàng Husrev đẹp trai ngay lần đầu nàng thấy hình ảnh chàng treo trên cành cây mà phải thấy ba lần nàng mới yêu? Em đã từng nói là trong chuyện cổ tích mọi thứ đều xảy ra ba lần. Anh đã cãi với em rằng tình yêu lẽ ra phải bừng nở ngay lần đầu nàng thấy bức hình. Nhưng ai có thể vẽ Husrev đủ trung thực để nàng yêu chàng, và đủ chính xác để nàng nhận ra chàng? Chúng mình chưa hề nói về điều này. Trong mười hai năm qua, giá như anh có được bức chân dung xác thực như thế về khuôn mặt không ai sánh được của em thì có lẽ anh đã không đau khổ đến vậy." 

Anh ấy nói những điều rất dễ thương theo kiểu này, về chuyện nhìn một bức minh họa mà đã đem lòng yêu, về chuyện anh đau khổ dữ dội vì yêu tôi đến thế nào. Tôi để ý cách anh từ từ tiến đến gần, và từng lời của anh chập chờn qua đầu óc tỉnh táo của tôi rồi đậu lại đâu đó trong ký ức tôi. Sau này tôi sẽ suy ngẫm lại những lời này, từng từ một. Nhưng vào lúc này sự cảm kích của tôi về ma lực trong những điều anh nói chỉ thuần là theo bản năng và nó trói buộc tôi với anh. Tôi cảm thấy có tội vì đã làm anh đau khổ suốt mười hai năm qua. Một người ăn nói ngọt ngào làm sao! Siyah tốt xiết bao! Như một đứa trẻ ngây thơ! Tôi có thể thấy được tất cả điều này qua ánh mắt anh. Việc anh yêu tôi nhiều như vậy khiến tôi tin cậy anh. 

Chúng tôi ôm nhau. Điều này làm tôi quá sung sướng đến độ không còn cảm thấy áy náy nữa. Tôi để cho cảm giác ngọt ngào này cuốn tôi đi. Tôi ôm anh chặt hơn. Tôi để cho anh hôn tôi, và tôi hôn lại anh. Và khi chúng tôi hôn nhau, có vẻ như cả thế giới này bước vào một cảnh tranh tối tranh sáng dịu dàng. Tôi ước gì mọi người có thể ôm nhau giống nhu chúng tôi. Tôi mơ hồ nhớ lại rằng tình yêu vẫn được cho là phải giống thế này. Anh ấy đút lưỡi vào miệng tôi. Tôi hài lòng với những gì mình đang làm, như thể cả thế giới này được chìm trong ánh sáng hạnh phúc; tôi chẳng nghĩ ra điều gì tồi tệ cả. 

Hãy để tôi mô tả cho bạn cái ôm của chúng tôi có thể được những nhà tiểu họa bậc thầy Herat vẽ ra sao, nếu câu chuyện bi thảm của tôi một ngày nào đó được kể lại trong sách. Có những bức minh họa gây kinh ngạc mà cha tôi đã cho tôi xem trong đó những dòng chữ viết run rẩy cùng nhịp với những chiếc lá đu đưa, hoa văn trên tường được phản ánh trong nét thiết kế đường viền mạ vàng và niềm vui của những cánh én chọc thủng phần viền của bức tranh gợi lên sự phấn chấn của những cặp tình nhân. 

Khi trao nhau những cái nhìn từ xa và gây khổ cho nhau bằng những câu nói đầy hàm ý, những người yêu nhau thường được vẽ quá nhỏ, quá xa về khoảng cách, đến độ trong phút chốc ta cảm thấy như câu chuyện hoàn toàn không phải nói về họ mà chỉ liên quan đến đêm đầy sao, hàng cây tối đen, tòa lâu đài tuyệt đẹp nơi họ gặp gỡ, khoảng sân và khu vườn tuyệt vời của nó, mà mỗi chiếc lá trong đó được đặc tả một cách đặc biệt và đầy âu yếm. 

Tuy nhiên, nếu cẩn thận chú ý kỹ sự hài hòa bí ẩn của màu sắc, mà nhà tiểu họa chỉ có thể truyền đạt với tất cả sự hiến mình cho nghệ thuật của anh ta, và vào ánh sáng kỳ bí lan tỏa khắp bức tranh, người quan sát sẽ lập tức thấy ngay rằng bí mật đằng sau những tranh minh họa này là ở chỗ chúng được tạo ra bởi chính tình yêu. Có vẻ như ánh sáng bắt nguồn từ những kẻ yêu nhau, từ chiều sâu của bức minh họa. Và khi Siyah với tôi ôm nhau, niềm hân hoan tràn ngập cả thế giới theo đúng kiểu này. 

Tạ ơn Thượng đế là tôi đã chứng kiến cuộc đời này đủ để biết rằng niềm hoan lạc này sẽ không kéo dài lâu. Siyah dịu dàng ôm lấy bầu ngực to lớn của tôi. Động tác này tạo cảm giác tê mê và, quên đi tất cả. Tôi thèm được anh bú núm vú tôi. Nhưng anh không chế ngự được nó, bởi vì anh không chắc về chuyện anh đang làm, dù sự không chắc của anh không ngăn anh khỏi ham muốn nhiều hơn nữa. Dần dần, chúng tôi càng ôm nhau lâu thì nỗi sợ hãi và bối rối càng chen vào giữa hai chúng tôi. Nhưng khi anh ấy bấu vào đùi tôi để kéo tôi sát hơn, ép dương vật to, cứng ngắc của anh sát bụng tôi, thoạt tiên tôi thấy thích; tôi tò mò. Tôi không bối rối. Tôi đã tự nhủ rằng chúng tôi đã ôm nhau như thế này thì tất phải dẫn đến chuyện như thế. Và dù tôi quay đầu đi, tôi cũng không thể rời đôi mắt mở to khỏi kích cỡ của nó. 

Lát sau, khi anh bất ngờ cố buộc tôi làm hành động thô tục mà thậm chí những phụ nữ du mục Kipchak và những cô hầu ưa kể chuyện tại các nhà tắm công cộng cũng không làm, tôi cứng người trong sự kinh ngạc và lưỡng lự. 

"Đừng nhíu mày vậy, em yêu," anh ấy van nài. 

Tôi đứng dậy, đẩy anh ấy ra và bắt đầu la hét vào mặt anh mà chẳng thèm để ý chút nào đến vẻ thất vọng của anh ấy.

--------------------------------
1 Aal-e-Imran: Gia đình Imran.