Tên tôi là Đỏ - Chương 33 - Phần 2


Khi bạn cảm nhận được sự tin tưởng này, hãy cứ làm bất cứ điều gì nảy ra trong đầu theo trực giác của mình rồi bạn sẽ thấy nhũng hành động của mình là đúng. 

Tôi cưỡi ngựa qua bốn dãy phố từ khu Yakutlar đến phía cửa sông Halic để tìm tay giáo sĩ có khuôn mặt tươi vui và râu đen ở thánh đường Yasin Pasha ở khu kế cận; chổi trong tay, ông ta đang xua lũ chó lì lợm ra khỏi khoảng sân lầy lội. Tôi nói với ông về tình trạng khó xử của tôi. Tôi giải thích rằng, bởi ý muốn của Thượng đế, Enishte của tôi sắp chết, và theo ước nguyện cuối cùng của ông tôi sẽ cưới con gái của ông, bởi theo quyết định của quan tòa Uskudar thì nàng đã được phép ly dị người chồng đã mất tích trong chiến tranh. Nhà giáo sĩ phản đối rằng, theo các điều khoản trong luật Hồi giáo, phụ nữ đã ly dị phải chờ một tháng mới được tái giá, nhưng tôi phản bác bằng cách giải thích rằng người chồng trước đây của Shekure đã vắng mặt suốt bốn năm; và do đó không có chuyện cô ấy có thai với ông chồng đó. Tôi vội nói thêm rằng quan tòa Uskudar đã đồng ý cho ly dị hồi sáng này để cho phép Shekure tái giá, và tôi cho ông ta xem giấy chứng nhận. "Thầy tế Kính mến của tôi, ông có thể tin chắc rằng không hề có trở ngại nào với việc cưới xin này!" tôi nói. Thực tình, nàng là bà con ruột, nhưng anh em bên ngoại không phải là một trở ngại; cuộc hôn nhân trước của nàng đã bị hủy bỏ; giữa chúng tôi không hề có những khác biệt về tiền bạc, xã hội hay tôn giáo. Và nếu ông ta nhận những đồng tiền vàng mà tôi đưa trước, nếu ông cử hành nghi thức hôn lễ được dự trù sẽ tiến hành trước mặt toàn bộ hàng xóm, ông cũng sẽ hoàn thành tốt một hành vi sùng đạo trước mặt Thượng đế cho những đứa trẻ không cha của một quả phụ. "Thưa thầy tế Kính mến", tôi hỏi, "Thầy có thích món xúp rau với hạnh nhân và mơ khô không?" 

Ông ta đồng ý, nhưng vẫn còn bận tâm đến lũ chó ở cổng. Ông ta nhận mấy đồng vàng. Ông nói để ông mặc áo choàng cưới vào; sửa soạn dáng vẻ, xem lại khăn xếp và đến đúng giờ đặng tiến hành những nghi thức cưới. Ông ta hỏi dường đến nhà và tôi chỉ cho ông ta. 

Cho dù đám cưới có vội vã đến đâu đi nữa - dẫu đó là một đám cưới mà chú rể đã mơ ước suốt mười hai năm qua - còn gì có thể tự nhiên hơn việc anh ta quên những lo âu và rắc rối của mình mà đầu hàng trước bàn tay trìu mến và sự chòng ghẹo nhẹ nhàng của một bác thợ cạo cho việc cạo râu và cắt tóc trước lễ cưới? Cửa hàng bác thợ cạo, nơi bàn chân tôi đưa tôi đến, nằm gần chợ, trên con đường có ngôi nhà đổ nát ở Aksaray, mà Enishte quá cố của tôi, bà dì và Shekure xinh đẹp của tôi đã rời đi nhiều năm sau thời niên thiếu của chúng tôi. Đây là bác thợ cạo tôi đã gặp năm ngày trước đó, ngày đầu tôi trở về. Khi tôi bước vào, bác ta ôm tôi, và như bất kỳ bác thợ cạo tử tế nào ở Istanbul sẽ làm thay vì hỏi tôi đã đi đâu về đâu cả chục năm qua. Bác ta lại lao vào những chuyện đồn đãi mới nhất trong vùng, rồi kết thúc cuộc nói chuyện với một lời bóng gió về nơi mà tất cả chúng ta sẽ đến vào cuối cuộc hành trình đầy ý nghĩa được gọi là cuộc đời này. 

Bác thợ cạo tài giỏi này đã già. Lưỡi dao bác cầm trong bàn tay nhăn nheo đã run khi bác quơ nó trên gò má tôi. Bác say sưa suốt và đã nhận một thợ học việc trẻ mắt xanh, môi mọng, da trắng hồng - kẻ nhìn ông thầy mình với vẻ kính sợ. So với mười hai năm trước, cửa hàng này giờ sạch sẽ và ngăn nắp hơn. Sau khi đổ đầy nước ấm vào cái chậu treo bằng một sợi dây xích mới từ trần nhà thòng xuống, ông ta cẩn thận gội đầu và rửa mặt cho tôi bằng nước lấy từ chiếc vòi bằng đồng dưới đáy chậu. Những cái chậu rộng cũ này được hàn mới lại không có dấu hiệu gỉ sét, những thùng than sưởi trông sạch sẽ, và những dao cạo có tay cầm bằng mã não thì bén ngót. Bác mặc chiếc áo chẽn lụa sạch bong, thứ bác miễn cưỡng mặc cách nay mười hai năm. Tôi cho rằng cậu thợ học việc tao nhã này, cao so với tuổi và thân hình mảnh khảnh, đã góp phần đem lại sự ngăn nắp cho cửa hàng và chủ nhân của nó, và trong khi thả mình theo những cảm giác sảng khoái của một cuộc cạo râu nhiều xà phòng ấm đẫm mùi hoa hồng, tôi không thể không nghĩ về chuyện hôn nhân mang lại sự thịnh vượng và sức sống mới không chỉ cho ngôi nhà của một người độc thân mà cả cửa hàng và công việc của anh ta nữa. 

Tôi không biết thời gian trôi qua bao lâu. Tôi chìm vào hơi ấm của thùng than đang dịu dàng sưởi cho cửa tiệm nhỏ này và những ngón tay thành thục của bác thợ cạo. Với việc cuộc sống bất ngờ tặng cho tôi những món quà tuyệt vời nhất hôm nay, cứ như cho không, và sau quá nhiều đau khổ, tôi cảm thấy vô vàn đội ơn Allah cao cả. Tôi cảm thấy cực kỳ tò mò, tự hỏi thế giới này của Người đã xuất hiện từ thế cân bằng bí ẩn nào, và tôi buồn thương cho Enishte, người đang nằm chết trong ngôi nhà nơi mà lát nữa đây tôi sẽ trở thành ông chủ. Tôi đang sẵn sàng lao vào hành động thì có tiếng ồn ào ngay cánh cửa luôn mở rộng của tiệm hớt tóc: Shevket! 

Bối rối, nhưng với vẻ tự tin thường lệ, nó chìa ra một mẩu giấy. Không nói được lời nào và linh cảm một điều tồi tệ, lòng tôi run rẩy như bị trúng một cơn gió lạnh khi tôi đọc thấy: 

Nếu không có lễ rước dâu, em sẽ không cưới - Shekure. 

Nắm lấy vai Shevket, tôi nhấc có lên đùi. Tôi thích trả lời cho Shekure yêu quý của tôi bằng thư. "Như em muốn, em yêu!". Nhưng trong cửa tiệm của một bác thợ cạo thất học thì lấy đâu ra giấy với viết? Vì vậy với sự kín đáo có tính toán, tôi thì thầm câu trả lời của tôi vào tai thằng bé: "được rồi." Vẫn thì thầm, tôi hỏi nó ông ngoại nó đang làm gì. 

"Ông đang ngủ." Bây giờ tôi có cảm giác rằng Shevket, bác thợ cạo, và cả bạn nữa đều đang nghi ngờ về tôi và cái chết của Enishte (Shevket, dĩ nhiên, cũng nghi ngờ những điều khác nữa). Thật tội nghiệp! Tôi gượng hôn nó, và nó nhanh chóng bỏ đi, bất mãn. Trong lễ cưới, mặc bộ lễ phục, nó từ xa nhìn tôi với vẻ thù địch. 

Vì Shekure không rời nhà cha nàng để đến nhà tôi, và tôi sẽ dọn đến nhà cha vợ trong vai trò chàng rể, nên đám rước dâu chỉ là chuyện phụ. Dĩ nhiên tôi không đủ khả năng sắm sửa cho những họ hàng và bạn bè giàu có của tôi và nhờ họ cười ngựa đứng đợi ở cổng nhà Shekure như những chú rể khác vẫn làm. 

Tôi chỉ mời có hai người bạn từ thời thơ ấu mà tôi tình cờ gặp trong sáu ngày qua từ khi trở về Istanbul (một người làm thư ký giống tôi còn người kia đang điều hành một nhà tắm) và cả bác thợ cạo thân mến của tôi nữa, đôi mắt ông ngấn lệ trong khi ông vừa cạo râu và cắt tóc cho tôi vừa chúc tôi hạnh phúc. Cưỡi trên con ngựa trắng mà tôi đã cưỡi trong ngày đầu tiên đó, tôi gõ cổng nhà Shekure yêu dấu của tôi như thể đã sẵn sàng để mang nàng đến một ngôi nhà khác và một cuộc sống khác. 

Với Hayriye, người mở cổng, tôi tặng một món tiền hào phóng. Shekure, mặc chiếc áo dài cưới đỏ tươi với những băng giấy hồng của cô dâu thả đài từ tóc đến chân, xuất hiện giữa những tiếng khóc, tiếng nức nở và thở dài (một phụ nữ quở mắng bọn trẻ), những tiếng la "Cầu Thượng đế phù hộ cô" và duyên dáng trèo lên con ngựa trắng thứ nhì mà chúng tôi mang đến. Khi tay trống và người thổi sáo mà bác thợ cạo tử tế đã thu xếp cho tôi vào phút cuối, bắt đầu chơi một giai điệu chậm mừng cô dâu thì đám rước dâu buồn bã, nghèo nàn nhưng đầy tự hào của chúng tôi đã khởi hành. 

Khi ngựa của chúng tôi bắt đầu đi nước kiệu, tôi hiểu rằng Shekure, với sự tinh ranh thường lệ của nàng, đã chuẩn bị cảnh tượng này để bảo vệ đám cưới. Sau khi đã thông báo lễ cưới của chúng tôi với cả khu xóm, cho dù chỉ vào giờ chót, đám rước dâu của chúng tôi về cơ bản đã giành được sự tán đồng của mọi người, do đó hóa giải được bất kỳ phản đối nào sau này đối với đám cưới của chúng tôi. Tuy nhiên, việc loan báo chúng tôi sắp cưới và tổ chức lễ cưới công khai - cứ như thách thức kẻ thù của chúng tôi, chồng trước của Shekure và gia đình anh ta - đã gây thêm nguy hiểm cho toàn bộ sự việc. Nếu chuyện này do tôi quyết định, tôi sẽ tổ chức lễ cưới trong vòng bí mật, không nói với một ai, không tổ chức lễ cưới; tôi thích trở thành chồng nàng trước và bảo vệ đám cưới sau. 

Tôi dẫn đầu đoàn diễu hành trên con bạch mã tính khí thất thường của tôi, và khi chúng tôi đi qua khu xóm, tôi lo lắng dò tìm Hasan và người của anh ta mà tôi e rằng sẽ phục kích chúng tôi sau một con hẻm hoặc một cánh cổng tối nào đó. Tôi nhìn thấy những chàng trai, người lớn tuổi trong khu phố và những kẻ lạ dừng bước và đang ở cửa vẫy tay, tuy không hoàn toàn hiểu hết những gì đang diễn ra. Trong một khu chợ nhỏ mà chúng tôi ngẫu nhiên tiến vào, tôi hiểu ra rằng Shekure đã khôn khéo khởi động đường dây rỉ tai của nàng, và việc nàng ly dị rồi cưới tôi đã nhanh chóng được cả khu xóm tán đồng. Điều này thấy rõ qua vẻ hào hứng của người bán rau quả, ông này tuy không hề bỏ bê những quả táo, cà rốt và mộc qua của ông ta quá lâu song vẫn đi theo chúng tôi vài bước và gào lên "Cầu Thượng đế che chở hai người", qua nụ cười của người bán hàng ủ rũ, qua những ánh mắt đồng tình của chủ tiệm bánh mì, người đang cho thợ học việc cạo các mảng khét bám trong nồi. Tuy nhiên tôi vẫn bồn chồn, cảnh giác đề phòng một cuộc đột kích bất ngờ, hoặc thậm chí một lời cật vấn thô bỉ. Vì lý do này, tôi hoàn toàn không bị bối rối vì sự nhộn nhạo của đám trẻ con kiếm tiền đang theo đuôi khi chúng tôi rời khu chợ. Qua nụ cười của các bà tôi thoáng thấy đáng sau các cửa sổ, song cửa và những tấm rèm, tôi hiểu rằng nhiệt tình của đám trẻ ồn ào này đã bảo vệ và ủng hộ chúng tôi. 

Khi tôi thấy con đường chúng tôi đang đi nãy giờ, tạ ơn Thượng đế, sau cùng cũng quành trở lại nhà, tôi thấy thông cảm với Shekure và nỗi buồn của nàng. Thực ra, không phải nỗi bất hạnh của nàng khi phải kết hôn vào ngày cha nàng bị giết khiến tôi buồn, mà bởi vì lễ cưới này quá đơn sơ và nghèo nàn. Shekure yêu dấu của tôi xứng đáng với những con ngựa có dây cương bằng bạc và yên chạm trổ, những kỵ sĩ mặc áo lông chồn và lụa thêu chỉ vàng, hàng trăm cỗ xe chất đầy quà và của hồi môn; nàng xứng đáng được dẫn đầu một đám rước vô tận gồm các con gái những vương hầu, vua chúa và những cỗ xe chở đầy những cung nữ già đang tán gẫu về những xa hoa của một thời đã qua. Nhưng đám cưới của Shekure còn thiếu cả bốn người cầm sào giương cao tấm trướng bằng lụa đỏ thường dùng để che cho các trinh nữ nhà giàu khỏi những cặp mắt soi mói; cũng không có cả một đầy tớ dẫn đầu đám rước mang những cây nến cưới to và những cây trang trí đính hoa quả, vàng lá, bạc lá và những viên đá bóng loáng. Không chỉ áy náy, tôi còn cảm thấy một nỗi buồn khiến tôi chực trào nước mắt mỗi lần bọn thổi sáo và đánh trống thản nhiên ngừng chơi khi đám rước bị chìm trong đám người đi chợ hoặc các đầy tớ đang hứng nước tại vòi ở quảng trường vì chúng tôi không có người dọn đường hô to "Cô dâu đến." 

Khi chúng tôi về gần tới nhà, tôi thu hết can đảm quay người lại nhìn nàng, và thấy nhẹ người khi bên dưới tấm mạng đỏ và dải kim tuyến hồng của cô dâu không hề có vẻ buồn rầu bởi những thiếu sót tội nghiệp đó, nàng trông khá phấn khởi khi biết rằng chúng tôi đã kết thúc đám rước và chuyến đi mà không gặp tai nạn hay rủi ro nào. Vì vậy, như mọi chàng rể, tôi đỡ cô dâu xinh đẹp vừa mới cưới của tôi xuống ngựa, khoác tay nàng và thong thả bốc từng nắm đồng xu bạc tung qua đầu nàng vào đám đông náo nhiệt. Trong khi đám trẻ nãy giờ theo chân đám rước nghèo nàn của chúng tôi tranh nhau những đồng bạc, Shekure và tôi bước vào sân, theo lối đi lát đá, và ngay khi bước vào nhà thì phả vào chúng tôi không chỉ có cái nóng mà có cả sự khủng khiếp của mùi thối rữa nặng nề. 

Trong khi mọi người theo đám rước tìm chỗ ngồi nghỉ trong nhà Shekure và đám người có tuổi, các phụ nữ và trẻ em (Orhan trong góc nhà đang nghi ngại nhìn tôi) trò chuyện huyên náo cứ như không hề có gì trục trặc và trong phút chốc tôi nghi ngờ cảm giác của mình; nhưng tôi biết các xác chết bị bỏ nằm ngoài nắng sau trận chiến thì có mùi thế nào, quần áo của họ tả tơi, giày và thắt lưng bị đánh cắp, còn khuôn mặt, mắt và môi họ thì bị sói và chim rúc rỉa. Đó là một mùi hôi thối vẫn đầy khắp miệng và phổi tôi gần như ngộp thở đến độ tôi có thể nhận ngay ra nó không chút lầm lẫn. 

Xuống nhà bếp, tôi hỏi Hayriye về xác của Enishte Kính mến, với ý thức rằng tôi đang nói với chị ta lần đầu tiên trong vai trò gia chủ. 

"Như ông bảo, chúng tôi để ông cụ nằm trên nệm, mặc đồ ngủ cho ông, quấn ông trong mền bông và đặt mấy chai xi rô cạnh ông. Nếu ông ấy tỏa ra mùi khó chịu, chắc là do hơi nóng của thùng than sưởi trong phòng", chị ta nói qua nước mắt. 

Một hai giọt nước mắt của chị ta rớt xuống, kêu xèo xèo trong cái chảo chị ta đang dùng để chiên thịt cừu. Qua cách chị ta khóc, tôi cho rằng Enishte Kính mến đêm đêm đã dẫn chị ta vào giường của ông. Esther, nãy giờ ngồi im lặng và tự hào trong một góc bếp, nuốt những gì chị ta đang nhai rồi đứng dậy. 

"Hãy coi hạnh phúc cho cô ấy là ưu tiên hàng đầu của anh," chị ta nói. "Hãy công nhận giá trị của cô ấy." 

Trong ý nghĩ tôi như nghe có tiếng đàn luýt mà tôi đã nghe được trên đường ngày đầu tiên tôi về đến Istanbul. Ngoài nỗi buồn, giai điệu của nó còn có sự mãnh liệt. Sau này tôi còn nghe được giai điệu đó một lần nữa trong căn phòng mờ tối nơi Enishte của tôi đang nằm trong bộ đồ ngủ, khi Thầy tế Kính mến làm phép cưới cho chúng tôi. 

Bởi vì Hayriye đã ngầm mở cửa cho thông gió căn phòng trước đó và đặt một ngọn đèn dầu trong góc cho nó chỉ sáng lờ một nên người ta khó mà nghĩ rằng Enishte của tôi bị bệnh chú đừng nói là đã chết. Vì vậy, ông đã đóng vai người giám hộ hợp pháp cho Shekure trong suốt buổi lễ. Người bạn thợ cạo của tôi, cùng với một ông già hàng xóm cái-gì-cũng-biết làm nhân chứng. Trước khi buổi lễ kết thúc với những lời chúc phúc và khuyên răn của ông giáo sĩ và những lời cầu nguyện của mọi người tham dự, một ông già thóc mách, do quan tâm đến sức khỏe của Enishte của tôi, định cúi cái đầu hoài nghi của ông ta xuống người chết; nhưng ngay khi giáo sĩ vừa hoàn tất nghi lễ, tôi liền nhảy ra khỏi chỗ đứng, chộp lấy cánh tay cứng ngắc của Enishte của tôi mà hét thật to: 

"Xin đừng lo lắng, Enishte thân yêu. Con sẽ làm mọi chuyện trong khả năng mình để chăm sóc Shekure và bọn trẻ, bảo đảm cho chúng được ăn ngon, mặc đẹp, được yêu thương và không gặp rắc rối." 

Kế đến, làm như Enishte của tôi đang cố thì thào với tôi trên giường bệnh, tôi cẩn thận và đầy tôn kính áp tai sát miệng ông, giả như đang chăm chú lắng nghe ông với đôi mắt mở to như những người trẻ vẫn làm khi một người già mà họ tôn trọng đưa ra mấy lời khuyên rút ra từ toàn bộ cuộc đời, những lời khuyên mà lúc đó họ nuốt ừng ực như một loại thánh dược. Thầy tế Kính mến và ông già hàng xóm có vẻ trân trọng và tán đồng lòng trung thành và sự tận tụy đến cùng mà tôi thể hiện với cha vợ. Tôi hy vọng không ai nghĩ rằng tôi có dính dáng vào vụ giết ông. 

Tôi thông báo với khách dự đám cưới vẫn còn trong phòng rằng ông cụ khốn khổ này muốn được ở một mình. Lập tức họ bắt đầu rút lui, đi qua phòng kế bên nơi mọi người tập họp để thưởng thức món cơm chiên thập cẩm và thịt cừu của Hayriye (lúc này tôi không còn phân biệt nổi mùi của xác chết với mùi thơm của hành tây, cây thìa là và thịt cừu rán). Tôi bước ra hành lang rộng, và giống như một gia chủ đãng trí và đăm chiêu đi lang thang khắp nhà mình, tôi mở cửa vào phòng Hayriye, không để ý đến những phụ nữ đang hoảng hốt vì có một người đàn ông xuất hiện giữa bọn họ, trìu mến nhìn Shekure, đôi mắt nàng ánh lên niềm hạnh phúc khi thấy tôi, rồi tôi nói: 

"Cha gọi em, Shekure. Chúng ta đã cưới nhau, em nên hôn tay cha." 

Đám phụ nữ hàng xóm mà Shekure mời vào phút chót và các cô gái trẻ mà tôi nghĩ là bà con tỏ vẻ đã trấn tĩnh và che mặt lại đồng thời liên tục ngắm nghía tôi đến thỏa thuê. 

Ngay sau hồi chuông báo giờ cầu kinh tối, khách dự đám cưới giải tán, sau khi nhiệt tình nạp đầy bụng những quả óc chó, hạnh đào trái cây khô và kẹo trái cây. Trong khu vực của các bà, tiếng khóc không ngớt của Shekure và tiếng cãi nhau của lũ trẻ ngỗ nghịch làm không khí lễ hội mất vẻ hào hứng. Giữa các ông, sự im lặng lạnh lùng của tôi trước những chọc ghẹo của hàng xóm về đêm tân hôn thú vị được cho là bởi lo lắng về bệnh tình của cha vợ. Giữa tình cảnh chẳng lấy gì làm vui ấy, hình ảnh ghi khắc rõ nhất trong ký ức của tôi là cảnh tôi đưa Shekure vào phòng của Enishte trước bữa tối. Sau cùng chúng tôi cũng được ở một mình với nhau. Sau khi hai đứa tôi hôn bàn tay lạnh và cứng của người chết với lòng kính trọng chân thành, chúng tôi rút vào một góc tối trong phòng và hôn nhau như cố thỏa mãn một cơn khát dữ dội. Trên đầu lưỡi nóng bỏng của vợ, mà rốt cuộc tôi cũng nút được vào miệng mình, tôi nếm được những viên kẹo mà lũ trẻ đã ăn lấy ăn để.