Tên tôi là Đỏ - Chương 36 - Phần 2


Tôi suy ra rằng họ thuộc những phường thợ thủ công của Đức vua: những người chế tạo quyền trượng, người đóng giày, thợ bạc, thợ cả dệt nhung, thợ chạm ngà, thợ làm đàn. Tất cả đang đứng chờ ngoài cửa dinh Trưởng Ngân khố với vô số những kiến nghị liên quan đến lương bổng, việc tìm mua vật liệu và yêu cầu được vào các khu cấm địa của Đức vua để đo đạc. Tôi mừng vì không thấy có thợ trang trí nào trong số họ. 

Chúng tôi đứng tránh sang một bên và cũng bắt đầu chờ. Thỉnh thoảng chúng tôi nghe giọng xướng cao của thư ký Trưởng Ngân khố, nghi ngờ một lỗi nào đó trong các bản quyết toán và yêu cầu làm sáng tỏ; yêu cầu này sẽ nhận được một câu trả lời lễ phép, của một thợ khóa chẳng hạn. Những tiếng nói ở đây hiếm khi cao hơn mức thì thầm; tiếng vỗ cánh của lũ chim ngoài sân vọng vào mái vòm bên trên chúng tôi còn lớn hơn những cầu xin nhỏ nhặt của đám thợ khúm núm này. 

Khi đến phiên mình, tôi bước vào phòng có mái vòm của vị Trưởng Ngân khố và thấy trong đó chỉ có một thư ký. Tôi nhanh chóng giải thích rằng có một vấn đề quan trọng cần đệ trình cho ngài Trưởng Ngân khố: Một dự án về cuốn sách mà Đức vua đã ra lệnh làm và nó vô cùng quan trọng đối với Ngài. Tò mò trước những thứ tôi đang ôm theo, viên thư ký ngước mắt lên. Tôi cho ông ta xem những bức minh họa từ cuốn sách của Enishte. Tôi nhận thấy rằng tính chất lạ thường của những bức tranh, sự quái dị rõ rệt của chúng khiến ông ta choáng váng. Tôi vội cho ông ta biết tên Enishte của tôi, biệt danh và nghề nghiệp của ông, nói thêm rằng ông đã chết vì những bức tranh này. Tôi nói nhanh, hiểu rõ rằng nếu rời lâu đài mà không gặp được Đúc vua, tôi sẽ bị buộc tội là đã đưa Enishte vào tình cảnh khủng khiếp đó. 

Khi viên thư ký rời phòng để báo cho Trưởng Ngân khố, tôi đột nhiên đổ mồ hôi lạnh. Liệu Trưởng Ngân khố, người mà, như Enishte của tôi từng cho biết, không bao giờ rời xa Đức vua, có khi còn trải thảm cầu kinh cho Ngài, và thường xuyên là bạn tâm tình của Ngày có chịu rời khỏi khu Enderun cấm địa của lâu đài để gặp tôi không? Việc cử một phái viên đến khu trung tâm cung điện vì tôi là đủ khó tin rồi. Tôi tự hỏi Đức vua có thể ở đâu: Ngài đã lui về một trong những nhà thủy tạ gần bờ biển? Ngài đang ở hậu cung? Trưởng Ngân khố có đi cùng Ngài không? 

Hồi lâu sau, tôi được triệu vào. Để tôi mô tả rõ thế này: tôi nhận tin quá bất ngờ đến độ không có thời gian để sợ. Tuy nhiên, tôi kinh hoàng khi thấy vẻ tôn kính và kinh ngạc trên nét mặt ông thợ cả dệt nhung đang đứng ở cửa. Tôi bước vào trong và lập tức hoảng hồn; tôi nghĩ mình không nói được thành lời. Ông ta đội một khăn thêu chỉ vàng mà chỉ có ông và Hoàng thượng mới đội; tôi đang ở trước mặt viên Trưởng Ngân khố. Ông ta đang xem những tranh minh họa nằm trên chiếc bàn đọc sách mà viên thư ký đã bày ra sau khi nhận từ tay tôi. Tôi cảm thấy như mình chính là người làm những bức tranh đó. Tôi hôn gấu áo choàng của ông ta. 

"Con à," ông ta nói. "Nếu ta không lầm thì Enishte của con đã chết rồi phải không?" 

Tôi không trả lời được vì kích động, hoặc có lẽ vì mặc cảm phạm tội, mà chỉ gật đầu. Ngay lúc đó điều hoàn toàn bất ngờ đã xảy ra: ở đó, trước cái nhìn ngạc nhiên và thông cảm của Trưởng Ngân khố, một giọt nước mắt từ từ lăn xuống má tôi. Tôi đờ người ra; tôi bị tác động kỳ lạ bởi việc có mặt trong lâu đài, bởi việc Trưởng Ngân khố đã tạm rời Đức vua để tiếp kiến tôi, và bởi việc tôi đang ở quá gần Ngài. Nước mắt tôi bắt đầu tuôn trào, nhưng tôi không cảm thấy chút bối rối. 

"Cứ khóc đi, con", Trưởng Ngân khố nói. 

Tôi thổn thức và rên rỉ. Dù tôi cho rằng mười hai năm trôi qua đã làm tôi chín chắn, nhưng khi ở quá gần Đức vua, quá gần đầu não của đế chế, ta nhanh chóng nhận ra mình chỉ là đứa trẻ con. Tôi không quan tâm liệu những người thợ bạc và dệt nhung ngoài kia có nghe được tiếng thổn thức của tôi không. Tôi hiểu mình thậm chí có thể xưng tội với Trưởng Ngân khố nữa. 

Phải, tôi đã nói với ông tất cả, đúng như nó xảy ra với tôi. 

Khi tôi một lần nữa nhìn lại Enishte quá cố, đám cưới của tôi với Shekure, sự đe dọa của Hasan, những khó khăn liên quan đến cuốn sách của Enishte của tôi và những bí mật nằm trong các bức minh họa, tôi đã lấy lại bình tĩnh. Tôi cảm thấy chắc chắn rằng cách duy nhất để cứu tôi khỏi cái bẫy mà tôi đã rơi vào này là phó mặc phận mình cho sự công bằng và tình thương vô hạn của Đức vua, và bởi thế tôi chẳng che giấu điều gì. Trước khi hiểu hết những điều tôi nói và giao tôi cho những kẻ tra tấn và đao phủ, liệu Trưởng Ngân khố này có truyền đạt câu chuyện của tôi thẳng đến Đức vua không? 

"Hãy lập tức thông báo cái chết của Enishte Kính mến cho cả xưởng vẽ." Trưởng Ngân khố nói. "Ta muốn cả phường hội họa sĩ dự đám tang của ông ta." 

Ông ta nhìn tôi để xem tôi có bất kỳ phản đối gì không. Phấn khởi trước sự quan tâm của ông, tôi bày tỏ những lo âu về việc ai là hung thủ và động cơ khả dĩ đằng sau cái chết cua Enishte của tôi và nghệ nhân mạ vàng Zarif Kính mến. Tôi nói bóng gió rằng dính líu vào vụ này có thể là những môn đồ của nhà thuyết giáo xứ Erzurum và những người đang nhắm vào các viện khổ tu nơi thường có âm nhạc và khiêu vũ. Khi tôi thấy vẻ nghi ngờ của Trưởng Ngân khố, tôi hăm hở trình bày những nghi ngờ khác của mình: Tôi báo cho ông ta biết rằng vấn đề tiền bạc và danh dự đi kèm với việc được mời minh họa và trang trí cho cuốn sách của Enishte Kính mến có thể đã dẫn đến sụ ghen tỵ và ganh đua không tránh khỏi giữa những nghệ nhân. Chỉ riêng việc giữ kín dự án này có thể đã khơi dậy những căm thù, đố kỵ và mưu đồ đó. Khi những lời này thốt ra khỏi miệng tôi, tôi lo lắng cảm thấy rằng Trưởng Ngân khố đã nảy sinh mối nghi ngờ tôi - cũng như bạn vậy. Lạy Thánh Allah, hãy thực thi công lý, đó là tất cả những gì tôi yêu cầu, không có gì hơn. 

Trong khoảng im lặng tiếp theo, vị Trưởng Ngân khố rời mắt khỏi tôi, như thể bối rối trước những lời nói và số phận của tôi, mà dán mắt vào những bức tranh nằm trên bàn. 

"Ở đây có chín bức tranh," ông nói. "Kế hoạch là cho một cuốn sách với mười tấm tranh. Enishte Kính mến nhận ở ta nhiều vàng lá hơn số vàng được sử dụng ở đây." 

"Tên dị giáo giết người đó hẳn đã ăn cắp bức minh họa cuối cùng, trên đó sử dụng phần lớn số vàng." tôi nói. 

"Con chưa nói với chúng ta tay thư pháp sao chép đó là ai." 

"Enishte quá cố của con chưa hoàn tất phần văn bản của cuốn sách, ông ấy nhờ con giúp hoàn tất nó." 

"Con ơi, con vừa giải thích chuyện con mới về đến Istanbul như thế nào mà." 

"Được một tuần rồi. Con về đây ba ngày sau khi Zarif Kính mến bị giết." 

"Ý con nói rằng Enishte Kính mến của con đã minh họa một bản thảo chưa được viết ra - không hề hiện hữu - trong ròng rã một năm trời à?" 

"Vâng, thưa ngài." 

"Vậy ông ta có để lộ cho con biết cuốn sách nói về điều gì không?" 

"Đúng những gì Đức vua tuyên bố rằng Ngài muốn: Một cuốn sách mô tả năm thứ một ngàn lịch Hồi giáo, nhằm khiến pháp quan Venice phải kinh hoàng bằng cách thể hiện sức mạnh quân sự và lòng tự hào của Hồi giáo, cùng với quyền lực và sự giàu có của triều đại Osman vĩ đại. Nó được dự trù trở thành một cuốn sách kể lại và minh họa những khía cạnh sống động nhất, có giá trị nhất của vương quốc chúng ta; và giống như trong cuốn "Những luận văn về nhân tướng học" 6, một bức chân dung của Đức vua sẽ được đặt ngay giữa sách. Hơn nữa, vì những tranh minh họa này được làm theo phong cách Tây vực bằng những phương pháp Tây vực, chúng sẽ khiến pháp quan Venice phải kinh sợ và mong muốn thiết lập quan hệ hữu nghị. Ta hiểu tất cả chuyện đó, nhưng có phải những con chó và cây cối kia là những khía cạnh sống động và giá trị nhất của triều đại Osman vinh quang không?" Ông ta nói, chỉ vào những bức tranh. 

"Enishte của con, cầu cho ông được yên nghỉ, khẳng định rằng cuốn sách thể hiện không chỉ sự giàu có của Đức vua, mà còn sức mạnh đạo đức và tinh thần của Ngài cùng với những ưu phiền che dấu của Ngài." 

"Và bức chân dung Đức vua?" 

"Con chưa thấy nó. Có lẽ nó ở nơi mà tên giết người vô đạo đã cất giấu. Ai mà biết được, có thể lúc này đang ở trong nhà hắn ta." 

Enishte quá cố của tôi đã bị giáng xuống vị thế một người được giao làm một mớ tranh kỳ cục mà Trưởng Ngân khố cho là vô giá trị, thay vì là một người phấn đấu hoàn tất một cuốn sách xứng đáng với số vàng ông được trả. Liệu vị Trưởng Ngân khố này có nghĩ tôi đã giết một người không đáng tin cậy và vô dụng để cưới con gái của Enishte, hay vì một số lý do nào khác - có lẽ để bán tống mớ vàng đó không? Qua cái nhìn của ông, tôi hiểu rằng vụ việc của tôi sắp được khép lại, vì vậy, bằng giọng lo lắng và thu hết can đảm, tôi cố chứng minh thanh danh của mình: Tôi nói với ông ta, Enishte của tôi đã tâm sự với tôi rằng một trong những nhà tiểu họa bậc thầy mà ông thuê có thể đã giết Zarif Kính mến tội nghiệp. Vẫn cố nói cho ngắn gọn, tôi cho ông ta biết Enishte của tôi đã nghi ngờ Zeytin, Leylek và Kelebek như thế nào. Tôi không có nhiều chứng cớ mà cũng không tự tin lắm. Về sau, tôi có cảm giác rằng Trưởng Ngân khố chẳng xem tôi là gì hơn một kẻ vu khống đê tiện và một tên buôn chuyện ngu ngốc. 

Cuối cùng, tôi thấy phấn chấn khi Trưởng Ngân khố nói rằng chúng tôi phải giấu những chi tiết về cái chết kỳ lạ của Enishte không cho xưởng vẽ biết; tôi xem đây là dấu hiệu cho thấy ông ta tin câu chuyện của tôi. Những bức tranh được để lại cho vị Trưởng Ngân khố và tôi đi qua Cổng Bab-us-Selam - mà lúc đầu tôi cảm thấy giống như Cổng Thiên đàng. Sau khi ra ngoài dưới sự khám xét cẩn thận của những lính gác, tôi thấy nhẹ cả người, giống như một người lính trở về nhà sau nhiều năm chinh chiến.


--------------------------------
1 Sogukcesme: Cổng Nguồn lạnh. 

2 Alay Meydani: Sân duyệt binh. 

3 Bab-us-Selam: Còn gọi là Cổng chào mừng hoặc Cổng thứ nhì. 

4 Divan Meydani: Sân thứ nhì. 

5 Trong những đoạn trên, tác giả mô tả đường vào lâu đài Topkapi, thời đó là hoàng cung của vua Thổ. Hầu hết địa danh trong lâu đài này đã được chuyển sang tiếng Anh , nhưng không hoàn toàn giống với cách dịch của các sách hướng dẫn du lịch. 

6 Có lẽ tác giả muốn nói tới cuốn Kitab al-Jalil fi'ilm al-firasah(Sách quan trọng về khoa nhân tướng học) của Shams al-Din al-Dimashqi (chết 1327), trong đó trích dẫn bảy tác giả cổ đại về vấn đề này, như Aristotle, Fakhr al-Razi, Ibn al-Arabi... Cuốn này được coi là tác phẩm bằng tiếng Ẳ Rập phổ biến nhất về lãnh vực này.