40.Quan Phủ Cõng Bà Đầm
Ở nước ta vào thời vua Lê chúa Trịnh, các sĩ phu Bắc Hà đã lấy làm xấu hổ mỗi khi nghe dư luận bàn tán về hai câu thơ :
Quý phi bỏm bẻm nhai trầu đỏ ;
Tiến sĩ xum xoe bợ phóng đồng.
Hai câu ấy là hai câu tả thực ở trong một bài thơ tám câu vịnh một ông nghè khi vào cung nội yết kiến chúa Tĩnh-Đô-Vương Trịnh-Sâm, đã bưng ống phóng (ống nhổ) cho bà chúa Chè (tức quý phi Đặng-Thị-Huệ) nhổ nước quết trầu. (Rất tiếc bài này đến nay chỉ còn truyền lại có hai câu).
Việc này là việc rất bí mật, nhưng rút cuộc nó đã không che được tai mắt dư luận nên người đương thời mới có câu thơ ấy, và câu thơ ấy là cái bia miệng để nhục cho sĩ phu lúc ấy.
Không nhục sao được, một người làm đĩ cả họ còn bị mang tiếng xấu lây, huống trong giới sĩ phu lại bị một ông nghè có những hành vi quá mức đê tiện ấy. Ông nghè là một nhà nho bự, một tay khoa bảng lớn, mà ông nghè thế, thử hỏi còn gì là thanh danh khoa bảng, là giá trị nhà nho, đệ tử của Thánh Hiền như vậy thì đáng đem nọc đằn đỉa ra trước Khổng miếu mà đánh, rồi lột áo mũ đi…
Tuy nhiên, nếu đem ông nhà nho nhơ bẩn này để so sánh với lão nhà nho ở thời thực Pháp khi đã đặt vững nền bảo hộ, thì thấy còn có thể châm chước… Lão nhà Nho này là ai ?
Hiện nay không ai còn nhớ tên họ của lão ta là gì, mà chỉ biết lão xuất thân cũng là tay khoa bảng (đâu đỗ đến cử-nhân thì phải), là khoa bảng tức thuộc loại trí thức cỡ lớn, trí thức cỡ lớn mà lão cũng muối mặt ra làm tay sai cho thực dân cũng là đáng nhổ vào mặt rồi, nhưng phải nào đã hết, khi lão làm tri phủ Vĩnh-tường, gặp lúc vợ chồng tên công sứ Pháp đi khám xét đê điều, tới khúc đường lội, ngay giữa thanh thiên bạch nhật, và trước cả hàng trăm con mắt đồng bào, lão đã nhanh nhẩu chạy lại chỗ con mụ đầm (tức vợ tên công-sứ) để ghé vai vào cõng nó đi qua.
Lão tưởng không có hậu quả gì. Nhưng câu chuyện « lão cõng đầm » ấy đã đồn đi khắp nơi, và đến tai ông Nguyễn-Thiện-Kế (tục gọi huyện Móm, người làng Nễ-đô, tỉnh Hải-dương) thi đỗ cử-nhân cuối đời Nguyễn nên ông này đã « thưởng » cho lão một bài thơ trào lộng, đánh dấu cái việc làm của lão :
Khôn khôn phủ Vĩnh, khéo khôn ngầm 26
Nịnh bố cu Tây, cõng mẹ đầm 27
Đôi vú ấp tai đầu nghểnh nghểnh,
Hai tay bưng đít mặt hằm hằm…
Cũng may cứng cánh 28 nhờ ơn tổ,
Nếu rủi sa chân chết bỏ bầm, 29
Chẳng kể mày-đay cùng tưởng lục ; 30
Ngửi tay, tủm tỉm miệng cười thầm.
Bài thơ rất hay, hai câu thực, và hai câu luận, thật là tả đúng cái cảnh một anh đàn ông đang cõng mụ đàn bà, và sâu cay nhất là câu kết. Bởi thế cũng được truyền tụng rất sâu trong dư luận đương thời.
Không biết ông Nguyễn-Thiện-Kế có đăng báo nào không, nhưng theo lời đồn thì ông có viết gởi cho lão phủ kia một bản để chờ thơ đáp họa. Song nguồn văn chương của lão đã bị cái hơi hướng của con mẹ đầm kia làm cụt hứng đi mất, nên chẳng còn gì để họa lại được nữa.
Đó, các bạn thấy chưa, cái dơ bẩn của lão nhà nho này có phải là trắng trợn, và dơ bẩn hơn gấp bao nhiêu lần của cái ông nhà nho thời vua Lê chúa Trịnh hay không ?
Than ôi ! Làm sao trong giới sĩ phu trước nay lại cứ thường có những thằng to đầu to học mà to cái đê tiện đến thế, để mang tiếng nhơ cho cả bè cả đống. Bởi vậy, muốn bảo toàn danh dự và củng cố đội ngũ, thì giới sĩ phu phải sớm loại trừ những cái manh nha đê tiện đi !… Còn không thì một con ghẻ sẽ đẻ ra nhiều con ghẻ vậy.