Bảy năm sau - Phần 02 Chương 22-24

22

HIỆN TRƯỜNG VỤ ÁN – ĆM VÀO

Phân định phạm vi an toàn, dải băng dài màu vàng bay phần phật trước gió trong ánh đèn hiệu loang loáng. Huy hiệu cảnh sát cầm ở tay, Santos mở một lối đi giữa đám người hiếu kỳ và cảnh sát để tới chỗ thuộc cấp.

- Anh tới xem đi, trung úy, một cuộc tàn sát thật sự! Mazzantini vừa cảnh báo vừa nhấc dải băng nhựa bảo vệ hiện trường vụ án.

Ngay khi bước vào quán bar, Santos đã bị tác động mạnh bởi cảnh tượng hiện ra trước mắt anh.

Hai mắt trợn ngược, miệng há hốc vì kinh hãi, Drake Decker nằm phơi ruột trên bàn bi a. Cách đó chưa đầy một mét, một xác người nữa nằm sóng soài dưới sàn nhà: một gã đàn ông cao lớn mặt rám nắng và xăm trổ bị cắt họng bằng một mảnh kính dài.

- Gã này là ai? Anh vửa hỏi vừa nhún gối phía trên xác chết.

- Tôi không biết, Mazzantini đáp. Tôi đã khám người hắn nhưng không tìm thấy gì, cả ví lẫn giấy tờ. Ngược lại, hắn mang thao con dao này găm trong một cái bao có chốt.

Santos kiểm tra chiếc túi bóng mà viên thuộc cấp chìa ra cho anh. Bên trong đựng một con dao nhỏ chuôi bằng gỗ mun và lưỡi sắc bén.

- Nó không được sử dụng, Mazzantini khẳng định, nhưng chúng tôi còn phát hiện ra một thứ khác.

Santos quan sát vật chứng tiếp theo: một chiếc KA-BAR, loại dao găm của quân đội Mỹ, có chuôi to được trang trí thêm các vòng da. Lưỡi dao bằng thép dài hơn mười lăm centimét hẳn đã được dùng để phanh thây Drake Decker.

Santos nhíu mày. Nhìn tư thế các xác chết, có lẽ phải có ít nhất một kẻ thứ ba ở cùng hai gã này trong phòng.

- Cậu bảo tôi là có ai đó đã gọi 911 đúng không?

- Đúng. Tôi đang chờ phần ghi âm cuộc gọi. Cuộc gọi xuất phát từ một máy di động. Người ta đang lần lại cuộc gọi đó. Sẽ không lâu đâu.

- OK, anh vừa đứng dậy vừa nói. Bảo Cruz đến chụp ảnh cho tôi, chụp càng rõ càng tốt hình xăm trên mặt gã kia nhé. Bảo cậu ta chụp lại cả con dao găm nhỏ nữa. Khi nào nhận được ảnh thì cậu gửi ngay lại cho tôi qua email nhé. Tôi sẽ gửi chúng cho Reynolds của precinct 3. Bên đó có một chuyên gia nhân chủng học có thể giúp được chúng ta.

- Rõ, thưa trung úy, tôi sẽ lo việc đó.

Trước khi ra khỏi quán bar, Santos đưa mắt liếc nhìn lần cuối toàn bộ căn phòng. Những bộ đồ màu trắng, găng tay latex, những khuôn mặt đeo khẩu trang, các kỹ thuật viên Khoa học hình sự làm việc trong im lặng. Được trang bị đèn huỳnh quang, chổi và bột, họ đang thu thập tất cả các dấu hiệu tìm được rồi niêm phong chúng lại.

- Có dấu vân tay ở khắp nơi thưa trung úy, Cruz, người phụ trách nhóm này, nói với sang anh.

- Cả trên miếng kính này à?

- Vâng, và cả trên bình cứu hỏa nữa. Các dấu vân tay đều rất mới và rõ nét. Một hành động nghiệp dư. Nếu gã này đã có hồ sơ lưu thì chúng ta sẽ biết danh tính hắn sau vài giờ thôi mà.

23

Chuyến bay của hãng Delta Airlines đến sân bay Charles-de-Gaulle vào lúc mười một giờ sáng dưới ánh nắng chói chang. Vì quá kiệt sức, Sebastian và Nikki đã ngủ li bì hầu hết hành trình. Vài tiếng ngủ nghỉ kịp thời giúp họ bước sang ngày mới với đầu óc sáng suốt hơn ngày trước đó.

Họ rời máy bay qua cầu thang ống rồi kiên nhẫn xếp hàng chờ làm thủ tục nhập cảnh.

- Chúng ta bắt đầu bằng việc gì bây giờ? Nikki vừa bật lại điện thoại vừa hỏi.

- Chắc là phải đến ga Barbès. Hỏi nhân viên ở đó, cố gắng tìm hiểu xem đoạn phim của chiếc camere giám sát ấy từ đâu ra... Đó là hướng đi duy nhất của chúng ta mà, không phải sao?

Cô im lặng gật đầu rồi trình hộ chiếu cho cảnh sát.

Rồi họ đi qua băng chuyền hành lý và tìm đến cửa ra. Một đám đông chen chúc nhau sau hàng rào chắn: các gia đình háo hức muốn gặp lại người thân, các tình nhân nôn nóng gặp lại một nửa của họ, các tài xế vẫy vẫy tấm biển tìm người. Trong khi Sebastian đi về phía đoàn taxi đang đứng xếp hàng, Nikki túm tay áo anh kéo lại.

- Anh nhìn kìa!

Giữa đám đông, mặc bộ com lê ba mảnh không chê vào đâu được, một tài xế có dáng vẻ nghiêm nghị giương một tấm biển:

Mr & Mrs LARABEE

Họ nhìn nhau, ngẩn mặt ra. Không ai biết họ đang ở Paris... Trừ những kẻ bắt cóc Jeremy.

Gật đầu đồng ý với nhau, cả hai quyết định ra mặt. Có thể đấy là một khả năng giúp họ tìm lại được con trai?

Viên tài xế chào đón họ bằng một giọng ấm áp âm sắc vùng Oxford.

- Chào ông, chào bà, chào mừng đến Paris, tôi tên là Spencer. Mời ông bà đi theo tôi.

- Chờ đã, màn xiếc này là gì vậy? Chúng ta sẽ đi đâu? Sebastian lo âu hỏi.

Vẻ kiên quyết, nhưng có chút kiêu kỳ, Spencer rút ra một tờ giấy từ túi áo trong. Ông ta mở tờ giấy rồi đeo cặp kính đồi mồi vào.

- Tôi được lệnh đi đón Ông và Bà Sebastian Larabbe. Chuyến bay Delta lúc mười một giờ khởi hành từ New York. Đúng là ông bà chứ?

Cả hai gật đầu, sững sờ.

- Ai đã đặt chiếc xe này? Nikki hỏi.

- Chuyện đó thì tôi không biết, thưa bà. Có lẽ nên hỏi ban thư ký của LuxuryCab. Tất cả những gì tôi có thể nói thì đây là một vụ đặt hàng đã được xác nhận lại vào ngay sáng nay với công ty chúng tôi.

- Vậy thì ông được yêu cầu đưa chúng tôi tới đâu?

- Đến Montmartre, thưa ông. Khách sạn Grand Hôtel de la Butte, chính là, nếu ông cho phép nói, sự lựa chọn tuyệt vời cho một kỳ nghỉ lãng mạn.

Sebastian nhìn chằm chằm ông ta, cơn tức giận trào dâng trong lòng.

Tôi không đến đó để hưởng một kỳ nghỉ lãng mạn. Tôi tới đây là để tìm con trai!

Nikki giơ tay trấn an anh. Viên tài xế có thể chỉ là con tốt trong một kế hoạch vượt quá tầm ông ta và ông ta cũng chẳng biết là có kế hoạch đó. Tốt hơn là nên liều mạng đi theo ông ta mà không gây sự và xem chuyện này sẽ dẫn họ tới đâu.

Chính vì vậy họ theo sát gót ông ta với vẻ cam chịu và ngờ vực.

Chiếc Mercedes phóng nhanh trên đường cao tốc phía Bắc.

Spencer đã chỉnh radio sang tần số nhạc cổ điển và lắc lư đầu theo nhịp bản Bốn mùa của Vivaldi.

Ngồi hàng ghế sau, Sebastian và Nikki nhìn các tấm biển lần lượt chỉ ra hành trình dẫn tới thủ đô nước Pháp: Tremblay-en-France, Garges-lès-Gonesse, Le Blanc-Mesnil, sân vận động nước Pháp...

Mười bảy năm nay, họ chưa quay trở lại Paris. Các kỷ niệm về kỳ nghỉ năm đó ùa về tâm trí họ, nhưng mối lo lắng khiến họ không thể chìm đắm trong đó được.

Chiếc xe vượt qua đại lộ vành đai rồi rẽ phải đi vào đại lộ các Thống chế trước khi đến khu phố cổ Montmartre. Phố Caulaincourt và đại lộ Junot, các hàng cây đã khoác lên mình bộ áo mùa thu, trải thảm lên vỉa hè những chiếc lá màu lửa.

Spencer đi vào một ngõ cụt toàn các ngôi nhà rợp bóng cây. Sau khi đi qua chiếc cổng cao bằng sắt rèn, chiếc xe tiến vào một khu vườn hoang sơ và um tùm, một chốn quê thực sự giữa trung tâm thủ đô. Chiếc xe đỗ trước khách sạn: một tòa nhà lớn màu trắng với những đường nét giản dị và thanh nhã.

- Chào bà, chào ông, chúc ông bà một kỳ nghỉ tuyệt vời, viên tài xế nói với họ trong lúc đặt hành lý của họ lên bậc thềm.

Vẫn cảnh giác cao độ, Nikki và Sebastian đi vào sảnh của toà nhà rộng thênh thang. Điệu swing rétro của nhóm tam tấu nhạc jazz chào đón họ. Không gian cởi mở và ấm cúng, với hình ảnh về một khách sạn gia đình được trang trí trau chuốt. Những hình dạng thuần khiết và góc cạnh của nội thất Art déco gợi nhớ tới những năm 1920 và 1930: ghế bành da, tủ buýp phê bằng gỗ thích trắng, đèn Le Corbusier, đồng hồ bằng gỗ sơn mài, các bức tranh ghép khảm trai và ngà voi.

Không có ai ở quầy tiếp tân. Bên trái lối vào, có thể nhận ra một phòng khách kín đáo ngăn cách bằng tủ sách mời gọi người ta đến đọc sách. Bên phải, quầy bar dài bằng gỗ gụ có vẻ như để phục vụ cho việc pha chế cocktail.

Tiếng giày cao gót gõ xuống sàn nhà lát gạch vuông. Họ đồng thời quay người lại thì thấy dáng vẻ thanh lịch của bà chủ khách sạn hiện ra trên khuôn cửa phòng ăn.

- Ông và bà Larabbe, tôi nói đúng chứ? Chúng tôi đang chờ ông bà. Chào mừng đến với Grand Hôtel de la Butte, bà ta nói bằng tiếng Anh với trọng âm nhấn rất chuẩn.

Tóc cắt ngắn như con trai, ngực phẳng, dáng người nam tính, váy ống dệt kinh tuyến dài đến đầu gối: trông bà ta như bước ra từ một cuốn tiểu thuyết của Francis Scott Fitzgerald.

Bà ta đi ra sau quầy tiếp tân rồi bắt đầu làm thủ tục nhập phòng.

- Khoan đã, Sebastian nói. Xin lỗi bà, nhưng sao bà lại biết chúng tôi?

- Chúng tôi chỉ có năm phòng, thưa ông, và khách sạn hiện đã kín chỗ. Ông bà là những người tới cuối cùng đấy.

- Bà có biết ai đã đặt phòng cho chúng tôi không?

Người phụ nữ đưa lên miệng chiếc đầu lọc hút thuốc màu hổ phách được bà ta cầm bằng ngón giữa và ngón trỏ. Bà ta rít một hơi rồi trả lời bằng giọng chắc chắn:

- Nhưng chính ông đã đặt mà, ông Larabee!

- Chính tôi ư?

Bà ta tra sổ lưu trên máy tính.

- Việc đặt phóng được thực hiện cách đây một tuần trên trang mạng của khách sạn chúng tôi.

- Tiền phòng đã được thanh toán chưa?

- Toàn bộ. Được thanh toán ngay khi đặt phòng bằng thẻ Mastercard mang tên ông Senastian Larabee.

Không tin nổi, Sebastian cúi xuống nhìn vào màn hình máy tính. Những thông số tham chiếu của giao dịch hé lộ một phần dãy số của thẻ thanh toán. Hoàn toàn chắc chắn: tài khoản của anh đã bị đánh cắp.

Anh nhìn vợ cũ với vẻ bực bội. Những kẻ lôi họ tới tận đây đang chơi trò quái quỷ gì thế này?

- Có vấn đề gì sao?

- Không sao, Sebastian trả lời.

- Vậy thì mời ông bà lên phòng, phòng số 5 tầng trên cùng.

Trong chiếc thang máy chật chội dẫn lên các phòng, Nikki ấn vào nút chỉ tầng trên cùng.

- Nếu vụ đặt phòng từ cách đây một tuần, điều đó có nghĩa là vụ bắt cóc Jeremy đã được lên kế hoạch từ lâu rồi.

Sebastian đồng tình:

- Rõ ràng là thế. Nhưng tại sao chúng lại liều lĩnh đánh cắp tài khoản của tôi để đặt căn phòng này?

- Có thể để yêu cầu chúng ta trả một khoản tiền chuộc, Nikki nói liều. Khi xâm nhập vào tài khoản của anh, chúng đã biết chính xác tài sản của anh có bao nhiêu và chúng có thể đòi bao nhiêu.

Khi đến nơi, họ đẩy cánh cửa thì thấy một căn phòng nghỉ tiêu chuẩn cao rộng thênh thang, trần cao áp mái.

- Lẽ ra họ nên chọn phòng xấu nhất chứ nhỉ! Nikki nhận xét để xoa dịu nỗi hoang mang của mình.

Giường rộng rãi, bồn tằm có chân trong phòng tắm, tường sơn tông màu phấn. Được trang trí rất có gu, căn phòng toát lên vẻ quyến rũ của chốn điền viên, tái hiện cách bài trì của một xưởng nghệ sĩ phóng khoáng: sàn mộc, gác lửng, tấm gương lớn hình ô van, sân thượng nhỏ trong xuống vườn.

Anh sáng đặc biệt kỳ lạ. Lọt qua đám thường xuân và các cành cây, ánh sáng rọi vào sưởi ấm căn phòng. Ta khó mà tin được mình đang ở khách sạn. Đúng hơn là ta sẽ có cảm giác được những người bạn có gu tinh tế cho mượn một nơi trú ẩn bí mật của họ vào kì nghỉ.

Cả hai đều bước ra sân hiên nhô ra phía trên khu vườn và đem lại tầm nhìn tuyệt hảo tới các công trình nổi tiếng của Paris. Ta nghe thấy tiếng chim hót và tiếng xào xạc của giò thổi qua các tán cây.

Nhưng cả Sebastian lẫn Nikki đều không để cho cái thành phố xinh đẹp đang trải dài dưới chân họ chinh phục. Thật ngạc nhiên, không khí dịu nhẹ mùa thu này không khiến nỗi lo âu của họ dịu đi chút nào.

- Thế bây giờ thì sao? Sebastian hỏi.

- Tôi không biết. Nếu họ đưa chúng ta tới đây, thì chính họ phải có ý định liên hệ với chúng ta, không phải sao?

Thử xem có tin nhắn nào không, họ cùng kiểm tra di động, gọi lễ tân rồi lục soát căn phòng. Không ăn thua.

Sau khoảng nửa giờ, sự chờ đợi trở nên không thể chịu đựng nổi.

- Tôi sẽ đến Barbès, Sebastian quyết định đồng thời với lấy áo vest.

- Tôi đi cùng anh. Không có chuyện tôi chôn chân trong căn phòng này đâu!

- Không. Chính cô đã nói rồi mà: chắc chắn chúng sẽ tìm cách liên lạc với chúng ta tại đây.

- Chúng ta đã thỏa thuận sẽ không rời nhau nữa cơ mà! Cô biện hộ.

Nhưng Sebastian đã ra khỏi cửa.

24

New York

Đồn cảnh sát đội 87

Santos lấy chiếc cốc trong máy nước tự động. Mặt trời vẫn chưa mọc ở Brooklyn nhưng viên trung úy đã uống tới cốc cà phê thứ ba. Lại một lần nữa, màn đêm bị khuấy động: trộm cắp, bạo hành gia đình, các cửa hàng bị vơ vét sạch, gái điếm bị chất vấn... Mười năm nay, các phương tiện truyền thông luôn quảng bá về New York bằng hình ảnh một thành phố yên bình và đảm bảo an ninh. Điều đó chắc chắn là đúng ở trung tâm Manhattan nhưng vùng ven thành phố thì không hẳn vậy.

Vì thiếu chỗ trong phòng giam, hành lang nơi đặt máy nước tự động trông không khác gì trại tị nạn: can phạm bị còng tay ngồi trên các băng ghế kim loại, nhân chứng ngồi chen chúc nhau như đám cá ngừ trên các băng ghế đã bị bục nệm, những người đi khiếu kiện cuộn tròn trong chăn. Hành lang được chiếu sáng bằng ánh đèn nê ông nhợt nhạt kêu lách cách. Một thứ mùi tởm lợm bốc lên, tiếng chửi rủa không ngớt. Ai cũng căng thẳng, khó chịu.

Santos rời chốn tạp nham này về văn phòng. Anh căm ghét cái đồn cảnh sát bẩn thỉu, ồn ào này và không hề có ý định chôn thân ở đây cho đến hết sự nghiệp. Không gian làm việc của anh cũng tương xứng: một căn phòng chật chội, chẳng mấy tiện nghi và không lấy làm biệt lập cho lắm trông ra một cái sân con nhớp nhúa. Anh uống ngụm cà phê loãng toẹt rồi cắn một miếng bánh vòng đã cứng lại khiến anh cố mãi mới nuốt được.

Sau khi ném cái bánh vào sọt rác, anh mở điện thoại gọi cho phòng thí nghiệm đảm nhiệm các phân tích độc học. Viên phụ tá phòng thí nghiệm khẳng định linh cảm của anh: thứ bột trắng tìm được ở nhà Nikki chắc chắn là cocain. Anh đặt tập hồ sơ sang một bên rồi tranh thủ đường dây yêu cầu nói chuyện với Hans Tinker.

Sau nhiều năm, Santos đã biết cách tự thiết lập cho mình một mạng lưới rộng lớn. Giữa bao nhiêu phòng ban rối rắm và phân tán khắp nơi của Sở Cảnh sát New York, rất nhiều người trong số họ còn nợ anh một lần giúp đỡ. Ở anh, đó gần như là bản tính: mỗi khi có thể giúp được đồng nghiệp là anh làm ngay. Ngay lúc đó thì có vẻ việc này chẳng lấy làm thú vị nhưng rồi sẽ đến lúc anh được hái trái chín từ cái cây đã trông bao lâu nay.

- Tôi Tinker nghe máy.

Hans Tinker, phó phòng khoa học hình sự, có lẽ là một liên hệ thú vị nhất. Hai năm trước, tình cờ trong một vụ kiểm tra, mấy tay cấp dưới của Santos tóm cổ được cậu cả nhà Tinker, khi đó đang giữa tuổi thiếu niên thích nổi loại, mang trong người một lượng “đá” không nhỏ. Rõ ràng, cậu quý tử không cam lòng hút hít một mình trong phòng mà hắn còn tuồn cho lũ bạn nữa. Santos đã nhắm mắt làm ngơ và cho hồ sơ xếp xó. Từ đó, Tinker luôn thể hiện lòng biết ơn vô tận với anh.

- Chào anh, Hans. Anh có tin gì mới về vụ án kép của tôi chưa?

- Chúng tôi đang tiến hành, nhưng sẽ lâu đấy. Có đến cả triệu dấu vân tay tại hiện trường vụ án mạng này và cần phải làm phân tích gen.

- Tôi hiểu, nhưng tôi cần gấp mấy dấu vân tay trên con dao KA-BAR, mẩu kính vỡ và cây gậy bi a.

- Mấy cái đó thì tôi đã có rồi. Tôi sẽ chuyển báo cáo cho cậu trong vòng hai giờ nữa.

- Không, không phải mất công đâu! Anh chuyển cho tôi các thông số cơ bản qua email nhé. Tôi muốn đưa chúng vào Hệ thống nhận diện vân tay tự động càng nhanh càng tốt.

Máy tính xách tay kẹp dưới nách, Mazzantini gõ lên ô kính rồi thò đầu qua khuôn cửa. Santos ra hiệu cho cậu ta tiến lại gần. Viên thuộc cấp chờ cho cấp trên gác máy rồi mới thông báo:

- Có tin mới, thưa trung úy. Tôi đã nhận được đoạn ghi âm cuộc gọi cho 911. Anh nghe nhé.

Cậu ta mở máy tính rồi bật tệp tin. Đoạn ghi âm rất ngắn. Có thể nghe thấy tiếng một người đàn ông, rõ ràng là đang hoảng loạn, từ chối nêu danh tính, nhưng khẩn thiết yêu cầu xe cấp cứu đến quán bar Boomerang.

“Có một người đàn ông đang hấp hối! Ông ta bị đâm nhiều nhát bằng dao! Các vị đến nhanh lên! Đến nhanh lên!”

Điều kỳ quặc là anh ta lại nói chỉ có một xác chết, không phải sao? Mazzantini hỏi.

Santos không trả lời. Anh đã nghe giọng nói này ở đâu rồi nhỉ?

- Họ đã tìm tung tích cuộc gọi, viên thuộc cấp của anh nói tiếp. Số điện thoại thuộc về Sebastian Larabee. Một nghệ nhân làm đàn giàu có sống ở Thượng Đông Manhattan. Tôi đã kiểm tra lý lịch của anh ta. Không một tì vết. Thực ra thì có chút: một cáo buộc duy nhất về tội chống đối người thi hành công vụ sau một lần kiểm tra của cảnh sát khi anh ta đi qua tốc độ cho phép thời còn học đại học. Theo tôi, anh ta thậm chí còn không biết mình bị lưu hồ sơ.

Gương mặt Santos rụng rời.

- Tôi cho một đội đến bắt anh ta nhé, sếp?

Santos im lặng gật đầu. Anh biết Sebastian đang ở Paris, nhưng anh cần thời gian suy nghĩ.

- OK, cậu đi đi, anh ra lệnh rồi sập cửa lại ngay khi Mazzantini quay gót.

Mắt lơ đãng, anh đừng trước cửa sổ. Tiết lộ vừa rồi khiến anh bàng hoàng. Sebastian Larabee mò đến chốn làm ăn của Drake Decker làm gì cơ chứ?

Tín hiệu ngắn gọn báo có email mới lôi anh khỏi dòng suy nghĩ. Anh đến ngồi trước màn hình rồi kiểm tra hòm thư. Đó là email của Tinker về việc xác nhận dấu vân tay.

Các kỹ thuật viên của Phòng Khoa học hình sự đã làm việc rất tốt. Với mỗi mẩu vật chứng, các vân tay để lại trên chúng hiện lên rất rõ, đáp ứng đủ yêu cầu sử dụng. Santos sao lại chúng vào ổ cứng máy tính rồi kết nối với dữ liệu tích hợp sẵn và kích hoạt chế độ tự động dò vân tay. Các điều tra viên của Sở Cảnh sát New York đều được đăng nhập trực tiếp vào cơ sở dữ liệu của FBI, đặc biệt là hệ thống IAFIS[1] trứ danh: một mỏ vàng chứa tổng cộng bảy mươi triệu đối tượng có tiền án tiền sự, đã từng bị bắt hoặc bị kết án trên lãnh thổ Mỹ. Anh bắt đầu bằng dấu tay tìm thấy trên con dao găm. Phần mềm bắt đầu chạy, quét cơ sở dữ liệu với tốc độ chóng mặt

[1] Tên viết tắt của Hệ thống tự động xác nhận vân tay. (ND)

MATCH NOT FOUND[2]

[2] Không tìm thấy.

Một dấu vô dụng.

Anh tiếp tục với dấu vân tay trên miếng kính dài vấy máu, vũ khí mà theo suy luận lô gic thì chính là thứ dùng để giết gã “xăm mặt”. Lần này, Santos may mắn hơn. Chưa đầy một giây sau, chương trình cho ra một kết quả. Các dấu vân tay là của Sebastian Larabee. Theo đà, anh tiến hành so sánh dấu vân tay trên cây gậy bi a. Gần như đồng thời, màn hình hiện ra bức ảnh của một cô gái trẻ. Hai tay run rẩy, Santos cho in tệp thông tin

Họ: Nikovski

Tên: Nikki

Sinh ngày 24 tháng Tám năm 1976 tại Detroit (Michigan)

Đã ly hôn với Sebastian Larabee.

Vào những năm 1990, Nikki từng bị bắt nhiều lần vì tội trộm cắp, say rượu nơi cộng cộng và tội tàng trữ ma túy. Tuy chưa từng bị giam lần nào, nhưng cô đã phải nhiều lần nộp phạt và phải lao động công ích nhiều giờ. Lần phạm tội gần đây nhất của cô là vào năm 1999. Từ đó, cô có vẻ im ắng.

Santos cảm thấy tim mình đập thình thịch.

Nikki đang dính líu vào chuyện gì thế này?

Nhìn hồ sơ của cô, toàn bộ tội lỗi có thể bị đổ cho cô. May mà anh giữ các con bài trong tay. Nếu khéo làm, thậm chí anh còn có thể giành lại người phụ nữ mình yêu và vĩnh viễn loại bỏ tên Larabee.

Để sang một bên những thứ có thể buộc tội Nikki, anh cẩn thận thu thập các bằng chứng hữu ích chống lại Sebastian: cuộc gọi 991, các dấu vân tay trên vũ khí gây án, vé máy bay đi Paris chứng tỏ tội bỏ trốn.

Hồ sơ rất chắc chắn. Có lẽ đủ để thuyết phục một thẩm phán nào đó khẩn cấp ký lệnh ủy thác xét xử quốc tế. Để đổ thêm dầu vào lửa, anh sẽ để rò rỉ một vài thông tin cho một số cơ quan báo chí thân thiết. Một người có danh vọng chạy trốn tới Paris sau vụ án mạng trong quán rượu: giới truyền thông rất thích những tin kiểu này. Nhà Larabee là một gia đình danh gia vọng tộc lâu đời ở New York, nhưng vào cái thời buổi khủng hoảng này, những người nắm quyền lực kinh tế không còn vị thế bất khả xâm phạm nữa. Mà ngược lại. Từ hơn một năm trở lại đây, phong trào của Những kẻ phẫn nộ đang thể hiện nỗi tức giận của họ đối với phố Wall. Đã bao lần, hàng trăm người biểu tình đã phong tỏa cầu Brooklyn. Sự phẫn nộ của tầng lớp trung lưu đang lớn dần và lan rộng khắp cả nước.

Thời thế đang thay đổi.

Những kẻ mạnh của quá khứ sẽ không còn mạnh trong tương lai.

Hơn nữa, Sebastian Larabee không phải một kẻ quen trốn chạy.

Ngay khi lệnh bắt giữ hắn ta được ban ra, hắn có thể sẽ bị tóm như một tên ngốc…