Từng Thề Ước (Tập 1) - Chương 15 - Phần 1

Chương 15

Ngỡ vô tình, thực cũng hữu tình[*]

[*]Trích trong bài thơ Trúc chi từ kỳ thập của Lưu Vũ Tình (772-842). (ND)

Từ lâu đã quen với cảm giác từ từ bị bóng đêm nhấn chìm thế này rồi, bởi từ nhỏ đến lớn, mỗi ngày của y đều là như vậy. Hết lần này đến lần khác, y đã quen bình thản nhìn từng kẻ thân bằng quyền thuộc vứt bỏ mình chẳng hề do dự, đến nỗi y cảm thấy như vậy mới là bình thường.

Bên dưới Hiên Viên sơn vẫn tưng bừng hỷ khí nhưng tình hình trên núi lại vô cùng căng thẳng. Thiếu Hạo, Thanh Dương, Xi Vưu, Hậu Thổ trước sau đều nhận được một tin giống nhau.

Hà Đồ Lạc Thư xuất hiện tại Ngu uyên.

Theo truyền thuyết, Hà Đồ Lạc Thư là địa đồ do Bàn Cổ đại đế tạo ra, không chỉ ghi lại hình thế núi sông khắp đại hoang mà còn chép cả những thay đổi khí hậu ở từng địa phương, nếu có được bức địa đồ đó, chẳng những nắm được địa lý các nơi mà còn có thể lợi dụng đặc điểm khí hậu để bày trận, là bảo bối binh hằng tranh đoạt.

Sau khi Bàn Cổ đại đế qua đời, Hà Đồ Lạc Thư cũng biến mất, nghe đồn Bàn Cổ đại đế giấu nó vào một quà trứng ngọc, giao cho gà vàng trong coi, gà vàng liền biến thánh một ngọn núi. Mấy vạn năm nay, vô số kẻ trong Thần tộc đã đạp nát núi non trên đại hoang để tìm Hà Đồ Lạc Thư nhưng chẳng thấy tăm tích, vậy mà hôm nay lại có trinh thám Thần Tộc trông thấy gà vàng trong truyền thuyết xuất hiện gần Ngu uyên.

Đừng nói Thiếu Hạo, Thanh Dương, Hậu Thổ thấy đều biến sắc mà kẻ luôn hững hờ trước mọi việc là Xi Vưu cũng chuẩn bị khởi hành đến Ngu uyên.

Tỉnh lại, A Hành phát hiện mình nằm trong Chỉ Nguyệt điện, nơi ở của Tam phi Đồng Ngư thị, còn phụ vương khoác áo bào đen đang ngội lặng bên song, vầng trăng vằng vặc nửa ẩn nửa hiện sau làn mây như chiếc lưỡi câu ngọc ngà móc vào khung tựa hồ chính vầng trăng đã kéo cửa sổ mở ra.

Phụ vương nàng ngắm trăng đến ngơ ngẩn xuất thần như đang nhớ lại chuyện gì đó xa xưa lắm, vẻ dịu dàng hoang mang khôn tả còn đọng trên gương mặt chưa phai nét tuấn tú.

Chưa bao giờ thấy phụ vương kỳ lạ thế này, A Hành chỉ biết nín thở thầm quan sát.

Chợt Hoàng Đế nhìn ánh trăng cả cười, vẻ ôn nhu lập tức biến mất: “Tỉnh rồi thì lại đây.”

A Hành vội lại gần quỳ xuống bên gối ông, “Sao phụ vương còn chưa ngủ?”

Hoàng Đế cười nhìn nàng, “Thiếu Hạo đối tốt với con chứ?”

A Hành cúi đầu, “Tốt lắm, thưa phụ vương!”

“Ta đang mong được bế cháu ngoại đấy nhé!”

A Hành lí nhí, “Con biết, nhưng chuyện này không gấp được đâu ạ.”

“Các con đều thuộc dòng dõi Thần tộc chính thống, Thiếu Hạo linh lực cao cường, hai đứa lại ân ái mặn nồng như thế, theo lý mà nói…” Hoàng Đế cau mày. “Lẽ nào còn có ẩn tình? Nhân lúc đang ở nhà chưa về bên ấy, để thầy thuốc khám thử xem sao.”

Một luồng hơi lạnh buốt chạy dọc từ chân lên khiến A Hành nhũn cả người, lát sau mới nhận ra phụ vương đang hoài nghi Thiếu Hạo lén giở thủ đoạn chứ không phải ngờ vực mình.

Hoàng Đế lại nói: “Phải rồi! Vừa nãy nhận được tin báo nói Hà Đồ Lạc Thư đã xuất hiện tại Ngu uyên. Con biết đấy, Tây Lăng tộc của mẹ con tuy không giành được thiên hạ nhưng vẫn có địa vị ngang ngửa với Thần Nông và Cao Tân, đều là trọng thần dưới trướng Bàn Cổ đại đế. Mẹ con từng kể với ta rằng trong tộc có truyền thuyết nói Hà Đồ Lạc Thư không chỉ là một tấm địa đồ mà còn ẩn giấu bí mật trọng đại sánh ngang với Bàn Cổ khai thiên lập địa, ta nghĩ đây cũng là nguyên nhân khiến Thần Nông và Cao Tân huy động nhân lực rầm rộ như vậy, tuy ta chẳng tin mấy chuyện vu vơ đó nhưng quyết không thể để Hà Đồ Lạc Thư rơi vào tay hai phe kia được.”

“Mấy vạn năm nay, có biết bao tin đồn nhảm về Hà Đồ Lạc Thư rồi, chắc gì lần này đã là thật?”

“Bất kể thật hay giả chúng ta cũng nhất định phải tranh lấy, nếu để Thần Nông tộc giành được nó thì ngày tàn của Hiên Viên đã cận kề rồi đó. Thanh Dương đã dẫn thủ hạ tới Ngu uyên, nhưng Thiếu Hạo, Yến Long, Trung Dung của Cao Tân, Xi Vưu, Chúc Dung, Cộng Công, Hậu Thổ của Thần Nông cũng lũ lượt đổ về đó, để một mình Thanh Dương đi ta không yên tâm, muốn cử Xương Ý tới giúp đỡ.”

A Hành thấy lòng chùng hẳn xuống, nếu phụ vương thật sự muốn cử Tứ ca đi, sao còn giữ nàng lại Chỉ Nguyên điện, dùng Tĩnh Tửu thạch làm nàng tỉnh rượu làm gì?

“Xin phụ vương cử con đi thay, đêm nay là tân hôn của Tứ ca, là đêm tân hôn đầu tiên và cũng là duy nhất của Tứ ca mà.”

Thấy Hoàng Đế yên lặng nhìn mình, A Hành quỳ xuốn thưa: “Tuy linh lực của con không bằng Tứ ca nhưng con và Thiếu Hạo là vợ chồng, hơn nữa chuyện này đến cuối cùng là đấu trí chứ đâu phải đấu dũng.”

Nghe nàng trình bày, Hoàng Đế cũng gật đầu ưng thuận, “Con nhớ lấy, nếu chúng ta không giành được thì thà hủy nó đi, quyết không để rơi vào tay kẻ khác.”

A Hành dập đầu thi lễ rồi đứng dậy toan đi.

“Hành nhi.”

A Hành nghe tiếng ngoảnh lại, Hoàng Đế liền đứng dậy, đặt hai tay lên vai nàng, “An nguy của cả Hiên Viên đều đặt lên vai con đó.”

Trước uy thế của phụ vương, A Hành cơ hồ nghẹt thở, chỉ biết gật đầu.

Đợi Hoàng Đế buông tay, nàng vội cúi đầu lui ra, đột nhiên, nàng ngẩng lên trông thấy Đồng Ngư thị đang đứng gần đó, cặp mắt sáng rực hệt mắt mèo chòng chọc dán vào nàng.

A Hành giật thót mình, sực nhớ ra Đồng Ngư thị vừa mất con trai, nàng cũng lờ mờ hiểu được đôi phần, bèn bước lại hành lễ với bà ta nhưng Đồng Ngư thị chẳng hỏi chẳng rằng, chỉ nghiến răng nghiến lợi nhìn nàng chằm chằm khiến A Hành lạnh cả người, vội cáo từ lui ra.

Giọng bà ta âm u vẳng lại sau lưng nàng: “Các người đừng vội đắc ý, ta nhất định phải khiến con đàn bà lòng dạ rắn rết Tây Lăng Luy nếm đủ mùi đau khổ.”

A Hành giận sôi gan, quay phắt lại.

Đồng Ngư thị chỉ mặt nàng cười sằng sặc: “Đại ca ngươi hại chết Huy nhi, nó đã muốn thiêu sống Huy nhi từ lâu rồi, nó hận Huy nhi thiêu chết Vân...”

Vừa nói đến đó Di Bành đã xông đến bịt miệng bà ta lại rồi quay qua cười xòa với nàng: “Mẹ ta bị kích động quá mức nên ăn nói linh tinh, muội đừng chấp nhé.”

“Cửu ca.” A Hành nguôi giận tươi cười tiến đến nhưng Di Bành đã kéo mẹ mình lui lại, ánh mắt đầy cảnh giác.

Thấy vậy nàng khựng lại, lòng buồn mênh mang, Di Bành và nàng chỉ hơn kém nhau vài tuổi, lại học chung một thầy, thuở nhỏ vẫn ngày ngày chơi đùa cùng nhau, thân mật khăng khít, vậy mà sau này lớn lên, chẳng hiểu sao càng lúc càng xa lạ.

“Cửu ca, muội về đây.” Nàng gượng cười, rảo bước ra khỏi điện.

Ra khỏi Chỉ Nguyệt điện, A Hành liền kêu A Tệ bay thẳng tới Ngu uyên.

Gương mặt Đồng Ngư thị cứ chập chờn trong đầu nàng, lẽ nào Tam ca thật sự bị Đại ca hại chết ư? Sao lại thế? Tam ca cản trở việc Đại ca kế thừa vương vị chăng?

Đột nhiên nàng giật thót mình, phụ vương thường ở lại Chỉ Nguyệt điện, lẽ nào không nghe thấy những lời linh tinh của bà ta? Nàng không muốn nghĩ xấu cho phụ vương, nhưng phụ vương trước dùng Tứ ca buộc nàng phải xung phong đi Ngu uyên, sau đó Đồng Ngư thị lại xuất hiện đúng lúc như thế khiến nàng không khỏi liên tưởng, liệu đây có phải một lời cảnh cáo của phụ vương chăng? Cảnh cáo nếu nàng không đoạt được Hà Đồ Lạc Thư thì mẹ nàng sẽ bị đẩy vào hiểm cảnh?

A Hành chợt thấy lạnh từ trong lạnh ra, cả người run lẩy bẩy, bèn rạp mình ôm chặt lấy A Tệ.

A Tệ cũng cảm nhận được, liền ngoảnh lại cọ cọ vào má nàng như an ủi.

Ngu uyên là nơi mặt trời lặn, nằm ở đầu cuối đại hoang, vung cực Tây hoang vu không một bóng người, cũng là một trong những thành địa lớn từ thời thượng cổ, nhưng người trên đại hoang không ai hiểu vì sao nó lại được tôn làm thánh địa sánh ngang với Thang cốc nơi mặt trời mọc lên. Quy khứ nơi đầu nguồn con nước, Ngọc sơn nơi ngọc linh quy tụ và Nam Bắc minh nơi hai cực hợp làm một. Ngu uyên sở hữu nguồn sức mạnh có thể nhấn chìm mọi thứ, chẳng sinh vật nào sống nổi ở đó, gọi là thánh địa, chi bằng gọi là ma vực còn đúng hơn, bởi vậy dần dà người đại hoang bèn gọi Ngu uyên là ma vực.

Lúc A Hành tới nơi là chính Ngọ, cũng là thời điểm sức mạnh của Ngu uyên suy yếu nhắc trong ngày, khói đen vần vũ trên vùng trời Ngu uyên cơ hồ đã nhạt đi nhiều, nhưng chẳng có thần tiên hay yêu quái nào dám xông vào làn khói cuồn cuộn đó.

Liệt Dương sẵn tính nóng nảy chẳng đợi A Hành lên tiếng đã xông thẳng vào màn khói đen, lập tức khói đen quấn quanh mình nó kéo xuống, nhìn bên dưới cũng chỉ thấy mịt mù khói đen, chẳng trông rõ vật gì, càng xuống dưới, khói đen càng dày đặc như một thứ dầu đen kịt, Liệt Dương hơi sờ sợ vội lật mình bay vút lên, đổ xuống vai A Hành.

A Hành nhìn qua con lạch không mọc nổi một ngọn cỏ, mắt trông về phía Tây chỉ thấy khói đen cuồn cuộn ngút mắt trào lên như sóng, lại tựa như mặt biển đen mênh mông chẳng thấy bến bờ, chẳng ai biết nó rộng bao nhiêu, cũng chẳng ai biết nó sâu chừng nào.

Nàng quay sang hỏi Chu Du: “Mọi chuyện thế nào rồi? Có phải Hà Đồ Lạc Thư thật không đó?”

“Điện hạ đã dùng linh lực tra xét rồi, có vẻ lần này là thật đó.” Ả chỉ tay về phía vách núi ngoài cùng của Ngu uyên. Lúc này đây phân nửa vách núi vẫn chìm trong màn khói đen, chỉ có phân nửa lộ ra dưới ánh mặt trời, nửa đen nửa vàng, càng toát lên vẻ đẹp quỷ dị.

“Nghe nói gà vàng chui vào sơn động, điện hạ đã đuổi theo hơn một canh giờ rồi.” Chu Du ngẩng đầu nhìn vầng dương đã bắt đầu ngả về Tây, thấp thỏm: “Mặt trời càng ngả về Tây thì sức mạnh nhấn chìm vạn vật của Ngu uyên càng mạnh lên, sau cùng còn hút luôn cả mặt trời vào, thần lực mạnh mẽ thế nào cụng không thoát nổi.”

Nàng liền giao A Tệ và Liệt Dương lại cho Chu Du, “Ngươi trông nom chúng giùm ta, đừng để chúng xông vào đó. Ta đi xem Đại ca thế nào.”

“Vương cơ phải cẩn thận đó! Nhớ ra khỏi Ngu uyên trước khi mặt trời lặn nhé!”

A Hành quăng tơ Thiên Tằm bám vào vách núi rồi xông thẳng vào cửa động.

Bên trong tối đen như mực, chẳng nhìn thấy bất cứ thứ gì, A Hành cầm một khúc mê cốc[1] soi đường, thận trọng tiến vào.

[1] Mê cốc: một loại thực vật được nhắc tới trong phần Nam Sơn kinh của Son Hải kinh, có thể phát sáng soi đường, đề phòng bị lạc. Theo Sơn Hải kinh chép lại: “Núi Chiêu Diêu có một loài cây, hình dạng như kê, màu đen, phát sáng, tên gọi mê cốc, đeo vào sẽ không bị lạc đường.”

Đi một lúc ước chừng một tuần trà, nàng trông thấy Thanh Dương. Y đang ngồi xếp bằng trên mặt đất, mặt tái nhợt, vạt áo lấm tấm máu, hiển nhiên đã bị trọng thương.

Trông thấy A Hành, y đùng đùng nổi giận, “Sao muội lại đến đây?”

“Huynh đến được, sao muội lại không thể?” Nàng tiến lại xem xét vết thương của y, “Là âm thương, Yến Long đả thương huynh sao?”

Nói rồi nàng dúi cho Đại ca một viên đan dược, “Thuốc này không trị được thương, nhưng có thể giúp huynh điều hòa nội tức.”

Thanh Dương chẳng buồn hỏi lại, nhận lấy uống ngay, “Nói chính xác là Yến Long và Thiếu Hạo cùng đả thương ta, sáng hôm qua tỷ thí với Thiếu Hạo đã bị thương nên hôm nay Yến Long mới thừa nước đục thả câu.”

“Phát hiện Hà Đồ Lạc Thư chưa?”

“Chỉ cần tìm thấy gà vàng, moi trứng ngọc trong bụng nó ra là được, tìm gà vàng không khó, cái khó là làm sao đối phó được với đám cao thủ Thần tộc cũng đang lăm le giành Hà Đồ Lạc Thư kia.”

“Chúng đâu cả rồi?”

“Thiếu Hạo đang bị Hậu Thổ cầm chân, y cũng đả thụ thương hơn nữa thổ linh của Hậu Thổ lại khắc chế thủy linh của Thiếu Hạo, nếu như bình thường thì chẳng có gì đáng ngại, nhưng Ngu uyên là nơi vạn linh giai không, có mỗi thổ linh nên linh lực của Thiếu Hạo khó mà thi triển được, chỉ có thể đánh ngang tay với Hậu Thổ thôi. Chúc Dung và Cộng Công đụng phải Yến Long, đôi bên cũng đang giao tranh ác liệt. Trung Dung và Xi Vưu đuổi theo gà vàng cả rồi. Ta vừa tiến vào sơn động chưa bao lâu đã bị Yến Long đánh lén nên định tránh sang một bên, để chúng quần nhau chán đi đã.”

Cảm nhận được tình hình mới qua lưới tơ tằm giăng sẵn, Thanh Dương chợt rùng mình, “Xi Vưu đả thương Chúc Dung bắt được gà vàng rồi...” Cả sơn động nhoáng lên một luồng sáng xanh biếc dịu dàng, chẳng cần Thanh Dương phải nói, A Hành cũng đoán ra, “Xi Vưu giành được Hà Đồ Lạc Thư rồi.”

Thanh Dương lập tức đứng dậy, “Thiếu Hạo đột nhiên biến mất trong thổ trận của Hậu Thổ, ắt hẳn là đuổi theo Xi Vưu rồi.”

A Hành kéo y lại, “Đại ca, để muội đi.”

Thanh Dương đưa mắt nhìn nàng, A Hành gấp gáp nói: “Hiện giờ chúng ta đuổi theo cũng chẳng kịp nữa rồi, chi bằng cứ đón lõng trên đường rút lui của chúng, huynh ở trong tối, muội ở ngoài sáng. Huynh ra cửa động đợi muội, lấy nhàn cự mệt, để muội đi dụ địch, đến lúc đó hai ta kẻ trong tối người ngoài sáng cùng phối hợp, nhất định sẽ có cơ hội đoạt lấy Hà Đồ Lạc Thư.”

Thanh Dương hành sự quả quyết, liền gật đầu, lẩn vào bóng tối.

A Hành vận linh lực lên tay, thận trọng tiến vào.

Vào sâu trong động, nàng mới thật sự cảm nhận được sự đáng sợ của Ngu uyên, mỗi bước đi, linh lực lại vơi đi một chút, hơn nữa,mặt trời càng ngã xuống gần Ngu uyên, mức độ tiêu hao càng tăng dần.

Đột nhiên một lưỡi đao từ dưới đất chỉa lên, nàng vừa tránh khỏi đã thấy vách động đâm ra tua tủa thổ kiếm, cứ chặt gãy lại thấy cái mới mọc lên, bốn bề đều là đất, những lưỡi kiếm cứ đâm ra liên miên không dứt.

Vách động sau lưng nàng như hóa thành một cánh cung, bắn ra từng loạt thổ kiếm dày đặc như mưa. A Hành tránh né đến phờ cả người, chợt thấy một thanh thổ kiếm từ đằng trước đâm thẳng tới, nàng tự biết không sao tránh nổi, đành hét toáng lên, giương mắt trơ trơ nhìn thanh kiếm đâm vào ngực mình.

Hậu Thổ ẩn thân giữa đám đất đá nghe nàng hét vội vàng thu kiếm lại, thanh kiếm dừng sựng trước ngực nàng, gã cũng theo đó mà hiện thân, ngạc nhiên gọi: “Bạt tỷ tỷ? Sao tỷ tỷ lại ở đây?”

A Hành còn chưa kịp hoàn hồn, nàng không sao tưởng tượng được gã Hậu Thổ tuấn tú nhã nhặn trước mặt mình chính là kẻ bừng bừng sát khí, suýt lấy mạng mình vừa nãy.Nàng bèn khom lưng thi lễ: “Đa tạ Tướng quân nương tay.”

Hậu Thổ vội đỡ lấy nàng, vừa thất vọng vừa hoảng hốt hỏi: “Nếu nói cảm tạ thì đệ cảm tạ tỷ tỷ mới phải, tỷ vẫn chưa nhớ ra đệ ư?”

A Hành giơ mê cốc soi vào mặt gã, nhìn thật kỹ. Thuở nhỏ nàng có tới Thần Nông một lần, nếu từng gặp gã thì hẳn là từ hồi đó, tiếc rằng chuyện xưa nàng đã quên gần hết, chỉ nhớ có lần mình đánh cho mấy tên vương tôn công tử vỡ đầu chảy máu, để xoa dịu cơn giận của họ, Đại ca phạt nàng phải bưng tảng đá nặng trịch đứng suốt đêm, nhưng tại sao lại đánh nhau nhỉ? À, hình như là bởi chúng ăn hiếp một đứa bé, tuy đứa nhỏ là hậu duệ vương tộc nhưng mẹ nó là người thuộc Yêu tộc, thân phận thấp kém nên luôn bị những đứa trẻ khác khinh miệt. Đứa nhỏ đó có đôi mắt nai dịu dàng vô hạn, tròng mắt nâu ngơ ngác, lông mi dài thật dài, lại rất mau nước mắt, mỗi khi bị đám trẻ kia làm nhục, nó chẳng hề phản kháng kêu la, chỉ rúc mình trong xó âm thầm khóc. Lúc nàng bị phạt đứng, nó lét lút tới thăm, còn hỏi nhỏ: “Có nặng không?”

Nàng lắc đầu cười còn nó lại bật khóc nức nở như thể chính mình bị phạt vậy, thoạt đầu nàng dịu giọng dỗ dành, nhưng càng dỗ nó càng khóc tợn, nước mắt lã chã như mưa, y hệt con gái, khiến nàng phát bực, bèn mắng cho mấy câu. Thằng nhỏ bị nàng mắng chỉ biết ngây ra nhìn nàng đến quên cả khóc.

A Hành nhìn vào mắt Hậu Thổ, lắp bắp: “Đệ..đệ là… đứa bé mau nước mắt đó ư?”

Vị anh hùng nổi danh khắp thiên hạ như Hậu Thổ không ngờ lại đỏ bừng mặt, “Là đệ đây, có điều mấy trăm năm nay đệ không khóc nữa. Đệ còn nhớ tỷ tỷ từng mắng rằng nam tử hán chỉ đổ máu chứ không rơi lệ mà!”

A Hành ngượng ngùng cười, buông lời cảm khán: “Giờ đệ đã trở thành nam tử hán chân chính rồi!”

Hậu Thổ vẫn bịn rịn chưa muốn đi khỏi, nhưng nơi này chẳng phải chỗ ôn lại chuyện xưa, đành nói: “Tỷ tỷ mau đi đi, thể chất của tỷ là mộc linh, mà Ngu uyên lại là nơi cây cỏ không mọc nổi, mặt trời cảng ngả về Tây thì linh khí của tỷ sẽ càng bị khắc chế nhiều hơn, sau cùng em rằng chẳng còn sức mà rời khỏi đây nữa đâu.”

A Hành cười tán thành: “Vậy ta đi đây, à phải, đệ có gặp Thiếu Hạo không?”

Hậu Thổ ngượng ngập đáp: “Bọn đệ vừa giao thủ khi nãy, Thiếu Hạo thật không hổ là Thiếu Hạo, nơi này toàn thổ linh, y hình như lại đang bị thương, vậy mà đệ vẫn chỉ đấu ngay tay với y, có điều…”

“Sao cơ?”

Hậu Thổ áy náy nói: “Có điều về sau y nôn nóng xông ra khỏi thổ kiếm trận của đệ nên bị thương nhẹ. Nếu tỷ tỷ tới tìm y thì mau đi đi, giờ y bị thương lại thêm thương, nấn ná ở đây không tiện đâu.”

“Đa tạ đệ.”

Hậu Thổ vội nói: “Tỷ tỷ đừng khách khí với đệ như thế. Đệ nói rồi mà, kẻ nên cảm ta là đề mới phải. Có lẽ chuyện xưa đối với tỷ chẳng đáng gì nhưng đối với một đứa nhỏ bơ vơ cô độc, tự ti yếu đuối như đệ thì…” Hậu Thổ nghẹn lời, ánh mắt sẫm lại, lát sau mới bình tĩnh nói tiếp: “Nhờ có tỷ mà đứa nhỏ ngày xưa mới có thể trở thành Hậu Thổ hôm nay.”

A Hành biết từng câu từng chữ của gã đều xuất phát từ đáy lòng, bèn hào sảng nói: “Được! Từ nay về sau ta sẽ coi đệ như đệ đệ mình, không khách khí nữa.”

Hậu Thổ mừng rỡ nhoẻn miệng cười.

Nhớ đến Xi Vưu cùng Thiếu Hạo, nàng lại sợ họ vì Hà Đồ Lạc Thư mà giao tranh, vội nhớn nhác toan đi, Hậu Thổ thấy vậy bèn trao cho nàng một quả cầu bằng đất vàng, “Nơi đây ngoài thổ linh thi vạn linh giai không, món pháp bảo này do đệ luyện ra, chỉ cần tỷ nắm nó trong tay, đi đến bất cứ nơi nào có đấy cũng có thể ẩn thân, hòa mình vào đất, lúc nguy cấp quăng nó ra còn có thể điều khiển thổ linh trong vòng ba trượng xung quanh, nhưng không kéo dài được lâu đâu.”

A Hành toan mở miệng cảm ơn nhưng rồi lại le lưỡi tươi cười nhận lấy quả cầu gã đưa.

Mặc Hậu Thổ ba lần bảy lượt dặn dò nàng rời khỏi Ngu uyên cho mau, A Hành vẫn chạy thẳng vào trong, có điều càng lúc nàng càng thấy áp lực đè nặng lên mình như thế bị một bàn tay khổng lồ trì kéo xuống vậy.

Ngửi mùi máu tanh thoang thoảng trong không khí, nàng ngỡ Xi Vưu và Thiếu Hạo đã giao tranh với nhau, bội cuống cuồng chạy đến, tim cơ hồ nhảy thót ra khỏi lồng ngực, chẳng biết rốt cuộc là ai bị thương.

Lần theo mùi máu, nàng tìm tới nơi giao đấu nhưng chẳng gặp Xi Vưu, chỉ thấy Yến Long và Thiếu Long. A Hành nắm pháp bảo của Hậu Thổ trong tay, nín thở dằn mình sau vách động âm thầm nghe ngóng.

Thiếu Hạo ngồi xếp bằng trên mặt đất, bao quanh là một bong bóng nước màu lam khổng lồ, Yến Long ôm đàn đi vòng quanh Thiếu Hạo, vừa đi vừa gảy, không nghe the61y tiếng đàn nhưng hễ y gảy là bong bóng nước quanh Thiếu Hạo lại co vào một chút, chẳng khác nào một trái tim đang khổ sở vùng vẫy.

Chẳng hiểu Thiếu Hạo bị thương ở đâu, chỉ thấy bạch bào trên người y vẩy đầy máu.