Bão táp cung đình, chương 28
Trần Thủ Độ dứt lời, chợt thấy nét mặt Thái tôn buồn rười rượi. Nhà vua nói:
- Dạo trước cháu đem Khuê Kình đến thưa với chú điều tâm huyết đó, là cốt tránh thiên hạ dị nghị. Chứ không phải lòng cháu có chút hồ nghi. Phụ hoàng đã bỏ cháu đi từ buổi còn thơ dại. Nhờ có chú chèo chống, thế nước nay đã vững. Chú cháu họ tộc đến lúc cùng hưởng lộc thái bình, chú lại định bỏ cháu bơ vơ chăng? Cháu cứ muốn chú sống lâu, mạnh khoẻ, minh mẫn và mãi mãi nắm giữ trọng trách quốc gia.
Trần Thủ Độ rưng rưng cảm động:
- Vẫn biết bệ hạ có lòng quý mến chú, nhưng tình thế bây giờ khác lắm rồi. Bộ máy nhà nước cần phải được mở rộng cho những người tài đức bên ngoài tham gia. Không thể chỉ chuyên chế trong tay một số người họ Trần ta được. Kẻ sĩ bất mãn. Dân chúng cũng bất mãn. Nước là của trăm họ. Trời cho họ Trần ta có phúc lớn thì được ở trên trăm họ. Nhưng còn bộ máy, phải mở rộng hơn nữa cho người ngoài vào. Nếu không, các khoa thi Nhâm thìn (1232), Kỷ hợi (1239) ta tuyển lựa các thái học sinh để làm gì? Mong bệ hạ xem xét cho kỹ, kẻo vì tình riêng mà quên cả việc lớn thiên hạ.
- Dạ thưa chú, chú đã dạy thế, cháu xin chú coi sóc cho việc binh nhung. Nhưng mỗi khi quyết việc gì hệ trọng, cháu sẽ thỉnh chú để chú xem xét. Thưa chú, có tin tức gì bên kia biên ải đưa về không ạ? Nhà Tống với quân Thát xâu xé nhau đến đâu rồi.
- Tâu bệ hạ, Nhà Tống ươn hèn cứ lùi dần. Vừa đây, Tống Lý tông vì lòng tham muốn lấy lại phủ Khai Phong do quân Kim chiếm đóng, nhưng không đủ lực. Đã nhận lời hiệp tác cùng đánh Kim với quân Thát -đát. Nhưng diệt xong Kim, Thát-đát quay sang diệt Tống. Vua tôi đại bại chạy dài xuống phía nam.
Thái tôn gật gù vẻ đăm chiêu suy nghĩ. Một lát, nhà vua hỏi:
- Thưa Quốc công, theo ý cháu, trước sau rồi người Thát-đát cũng chiếm được Trung Hoa. Song, chiếm cho hết được dải đất mênh mông ấy không phải là chuyện một mai một chiều có thể làm nổi. Vì vậy ta vẫn còn có thời cơ lo việc giữ nhà.
- Tâu hoàng thượng, đúng như vậy. Nhà Tống tuy yếu hèn, nhưng dân Tống và lớp sĩ phu không dễ gì khuất phục nổi họ. Bên kia biên ải im ắng lắm. Lính Tống nhút nhát, nhu nhược. Lỡ có việc gì tranh chấp xảy ra ở vùng biên thuỳ, các biên tướng Tống thường làm ngơ hoặc nhượng bộ. Còn biên ải phía tây nước Đại Lý do quân Thát-đát chiếm giữ, cũng không có động tĩnh gì. Có điều ta phải đề phòng. Thát-đát có lối đánh kỵ binh sở trường. Quân tinh nhuệ lại thiện chiến, mỗi ngày chúng có thể tiến hàng trăm dặm, thoắt tới, thoắt lui, xuất quỷ nhập thần, khiến quan quân Tống phải lao đao. Tâu hoàng thượng, bấy lâu thần đang canh cánh lo cách đánh, đỡ thế nào để quân kia không phát huy được cái sở trường của nó.
- Dạ, việc đó chú nên hiệp các tướng lại mà bàn. Chú phải lo cử lính viễn thám cải dạng đi sâu vào đất Thát, xem xét việc tổ chức binh, lương, quân mã, quân bộ, quân thuỷ và phương lược dụng binh của họ thế nào, để còn liệu cách chống đỡ. Thưa chú, việc này lớn lắm, quan hệ đến sự mất còn của nhà nước Đại Việt. Chú thử xem sức quân, lòng dân như thế, liệu quân Thát vào cõi, ta có đủ sức đánh không?
- Tâu bệ hạ, lòng bệ hạ yêu dân như con. Luôn lo lắng chăm chút cho họ. Chắc họ cũng chỉ mong có dịp để tỏ lòng trung với nước. Xin bệ hạ cứ bình tâm. Thần xin tận lực lo việc này. Dạ, bữa nay đến gặp bệ hạ, xin tâu có mấy việc như vậy. Chào bệ hạ, chú về.
Thái tôn toan đứng dậy tiễn Trần Thủ Độ, chợt nhớ ra điều gì. Nhà vua giơ tay ngăn lại:
- Thưa Quốc công, hai khoa thi trước, nhà nước cũng lựa được khá nhiều anh tài. Nay bổ dụng đã hết. Vả lại để cho kẻ sĩ đua tài ra sức giúp nước, cháu định từ nay, việc thi thái học sinh cứ bảy năm một lần. Dạ, theo cháu sớm hơn nữa e không được, mà muộn hơn chắc nhiều người nản. Nếu chú thấy thế là được, sang năm triều đình sẽ ban lệ này, để lớp sĩ phu an tâm rèn rũa việc học.
- Bệ hạ nghĩ thế nào là đúng, cứ thế mà quyết. Chú chữ nghĩa lõm bõm không dám lạm bàn việc văn. Chỉ mong sao nước có nhiều người tài đức.
- Xin Quốc công từ nay đừng nhắc đến việc chữ nghĩa nữa. Quốc công không có thời gian để nghiền ngẫm tam giáo, cửu lưu đó thôi. Cớ sao Quốc công lại tự nhún mình thái quá làm vậy. Nhà vua nói và nhìn trên khuôn mặt quắc thước của ông chú, để dò tìm xem ý tứ Quốc công ra sao. Trần Thủ Độ vừa nở một nụ cười tươi, làm khuôn mặt ông bừng sáng. Nhà vua nói tiếp:
- Quốc công chẳng thấy, biết bao người chữ nghĩa giỏi đến phát rồ lên, nhưng có làm được việc gì ra hồn. Chung qui cũng chỉ là bọn thợ nói, ích gì cho thiên hạ. Còn như Quốc công, chữ nghĩa tuy ít thật, nhưng Quốc công đã làm biết bao việc lớn. Có nhẽ trước Quốc công, chưa ai làm được như thế. Và sau Quốc công, chắc gì có người theo được. Quốc công là bậc kỳ tài có một không hai trong lịch sử nước nhà mà không tự biết, hoặc không cần biết đến.
Trần Thủ Độ cười lớn. Tiếng cười vang lên với vẻ sảng khoái khác thường. Đoạn ông im bặt và nói dằn từng tiếng.
- Vương thượng ơi, sao lại coi thường người có chữ nghĩa được. Nhớ hồi mới dấy nghiệp, thế nước rối như một búi bòng bong, nếu không được Hoàng tiên sinh - một bậc cao sĩ dạy bảo cho đường đi nước bước, thời thần cũng chỉ là một tên võ phu, với một số võ công nhì nhằng. Rồi nhắm mắt lao vào con đường tranh chiến với các phe phái, đẩy đất nước vào cảnh nồi da xáo thịt. Chớ làm sao có thể tạo dựng được nghiệp lớn cho nhà Trần hôm nay.
Bỗng Trần Thủ Độ có vẻ bùi ngùi. Cặp mắt ông mơ màng nhìn vào một cõi xa xăm nào đó. Một lúc sau, ông mới lại cất được nên lời:
- Tới nay, thần vẫn còn hận vì đức mỏng nên không lưu giữ được tiên sinh. Không, ngày ấy hoàng thượng còn nhỏ lắm. Thần đã thờ tiên sinh như một bậc quốc phụ, lại mời tiên sinh tham dự triều chính. Nhưng tiên sinh một mực chối từ. Người chỉ nhận làm môn khách của thần, chứ không chịu làm chính khách của nước. Đúng là những người có đức lớn, không dễ gì lấy quyền uy và phú quí, vinh hoa để lôi kéo họ được. Sai khiến họ, quả là một điều khó. Cực khó.
Thái tôn tỏ vẻ bùi ngùi vì nuối tiếc đã không giữ lại được một bậc quốc sĩ.
Thái tôn cũng cảm thấy chạnh lòng khi nghĩ tới sự thiếu vắng quan thừa chỉ - người đã khai mở cho nhà vua nhiều điều tốt đẹp. Thái tôn nói đầy vẻ tiếc nuối:
- Thưa Quốc công, việc Hoàng tiên sinh bỏ đi là tự ý ông ta không muốn ở lại giúp đời. Còn như việc ra đi của quan thừa chủ, mới làm trẫm ân hận. Suốt đời ân hận. Xin quốc công từ nay hãy vì trăm họ mà trồng cây đức, sao cho người hiền không bỏ chúng ta đi nữa.
Trần Thủ Độ tự nghĩ: “Quan thừa chỉ bỏ đi, chẳng riêng gì nhà vua ân hận, chính ta còn cảm thấy tủi hổ và đau lòng khôn nguôi. Bởi chưng kẻ nắm giữ trọng trách quốc gia, mà để cho người tài đức phải bỏ nước ra đi, đấy là sự phỉ nhổ, sự khinh thị của họ đối với bộ máy nhà nước. ÔÂi, ta cho đó là một vết nhơ, một sự nhục mạ đối với thái sư thống quốc như ta”. Chợt nhớ, nhà vua vừa dặn. Với vẻ nghiêm trang kính cẩn, Trần Thủ Độ đáp:
- Tâu thánh thượng, nếu việc đó còn xảy ra, xin bệ hạ hãy chém đầu thần để giữ nghiêm phép nước.
================.
1. Cáo : Một loại văn hành chính cung đình. Tuỳ theo mức độ quan trọng khác nhau mà dùng các thể khác nhau như: Chiếu, chế, cáo, biểu v.v….kiểu như thông tri, chỉ thị, giấy triệu tập….của ta bây giờ.
2. Tạo sĩ: một bằng cấp về ngạch võ, tương đương với bằng tiến sĩ bên văn.
3. Trần Hoảng sau là Thánh tôn. Anh là Trần Quốc Khang không được lập, vì khi Thuận Thiên về với Trần Cảnh, đã có mang với Trần Liễu ba tháng. Khang chính là con của Liễu.
4. Thủ đô cũng là đất ăn chơi của nhà Nam Tống.
CHƯƠNG 28
Lệ thi Thái Học Sinh vừa được vua ban năm trước. Năm sau mở khóa thi đầu tiên theo lệ mới. Sĩ tử cả nước nô nức đua tài để vào mùa xuân này đọ sức. Nghe nói khoa này sẽ lấy tam khôi(1), và nhà vua đích thân chấm, chọn các bậc tiền tài cho đất nước.
Vừa ăn tết xong, kinh thành Thăng Long còn chưa tan hết khói pháo, sĩ tử các nơi đã dập dìu kéo nhau về quốc học viện để dự các buổi bình văn. Một bữa nọ, Thái tôn ghé qua nhà Quốc tử giám, mới từ cổng nhìn vào đã thấy đám nho sinh ngồi la liệt chật sân, vẫn còn phải đứng ém trong góc vườn để nghe quan tư nghiệp thuyết giảng. Nhà vua nhìn đám sĩ tử đông nghịt, chen chúc nhau, nhưng vẫn im phăng phắc, lòng ngài vui như mở hội - Đây là dấu hiệu của thời thịnh. Giọng quan Tư nghiệp quốc tử giám sang sảng: “… Cái phần chiêu minh ở trong người ta gọi là tâm. Tâm là cái thần minh ở trong vạn vật, là cái tia sáng của Trời phú cho ta để hiểu biết các sự vật. Vũ trụ sở dĩ có là bởi có cái tia hồi quang ấy, chứ không thì dẫu có cũng như không mà thôi. Người ta có cái phẩm giá tôn quí, là cũng nhờ có cái tâm. Cho nên hễ bỏ cái tâm đi, thì vũ trụ chỉ là một khối vật chất vô giác. Bởi vậy, người ta phải giữ cho cái tâm được trong lặng. Tâm có trong lặng thì mới mẫn nhuệ mà cảm ứng được các điều thiện, ác để hành hóa việc người cho hợp với thiện đạo của Trời…” Thái tôn rất bằng lòng với lời thuyết giảng của quan tư nghiệp, về lẽ hằng mà đức Khổng Tử đã từng rao giảng trên thế gian, cách đây từ mấy ngàn năm trước.
Có người vào bẩm, đức vua ngự giá tới thăm quốc học viện. Quan quốc tử giám tế tửu lập cập từ nhà học đường chạy ra, rập đầu lạy tạ, xin nhà vua tha tội.
Thái tôn ôn tồn nói:
- Quan tư nghiệp hãy bình thân. Mau trở lại tiếp tục cuộc bình văn. Ta rất vui, thấy sĩ tử cả nước đã sớm về kinh tụ hội, mặc dù còn lâu mới tới hạn kỳ thi tuyển. Nhìn đám nho sinh trong sân quốc tử giám, lại nhìn quan tế tửu với vẻ ái ngại, nhà vua nói.
- Quốc tử giám chật quá! Chật quá! Để các sĩ tử đã về kinh đều được nghe giảng trước ngày thi, ta sẽ cho mở cửa Chiêu Văn quán, Sử quán, Tập Hiền viện để các quan vào đấy bình văn, các sĩ tử chia nhau đi nghe giảng. Ngay cả toà Ngự Diên, ta cũng cho mở cửa, đích thân ta sẽ bình giảng. Nói rồi nhà vua quay đi. Khuôn mặt ngài ngời sáng như lấp lánh ánh hào quang.
Thăng Long rét muộn. Sau lễ thượng nguyên(2) rồi mà trong các ngõ xóm, các vườn nhà, đào, mai vẫn còn phô sắc thắm. Nhất là trong vườn ngự uyển, thôi thì đủ sắc đủ hương, trăm hồng ngàn tía. Đào phai, đào thắm xen lẫn hồng trà, bạch trà, hải đường. Lại có cả hoàng mai, bạch mai điểm xuyết một cách kín đáo nhưng không kém phần rực rỡ. Và kìa, những khóm quất, quả còn sai trĩu trịt, thắm một màu vàng. Nhưng các cành nhánh lại bật nở những nụ hoa trắng phau như những hạt bỏng thoang thoảng đưa hương. Hương quất, hương bưởi, hương nhài, hương lan… cùng các loại hoa thơm khác hoà quyện với nhau. Và gió đem mùi thơm đi khắp kinh thành.
Quan đại an phủ sứ của kinh sư khuyến cáo dân chúng kinh kỳ dọn dẹp đường phố, sửa sang tư thất để đón khách bốn phương.
Người Thăng Long vốn hiếu khách, nên nhà nào có máu mặt một tí đều lo chăng đèn, kết hoa, sửa sang nhà cửa. Thật ra thì cũng không phải sửa sang gì cho lắm. Bởi mới tết ra, nhà cửa còn sạch gọn. Chỉ cần treo lại cây đèn lồng. Soạn sửa lại phòng văn. Các đồ văn phòng tứ bảo còn thiếu gì mua sắm thêm. Mực, son, giấy, bút lông thỏ. Mua sắm sẵn đấy cho lịch thiệp thôi, chứ các nho sinh đã về kinh, thì họ cũng đem theo đầy đủ cả. Phố phường chỗ nào cũng rực sáng ánh đèn ban đêm, tấp nập người qua lại ban ngày. Hết giờ bình văn, các sĩ tử từ các cửa Đại Hưng, cửa Diệu Đức, cửa Tường Phù, cửa Quảng Phúc trong hoàng thành tỏa ra phố phường đông nghì nghịt. Đông nhất vẫn là các phố Hàng Giấy, Hàng Bút. Các cửa hàng đua nhau trang hoàng rực rỡ. Các cô gái ngồi bán hàng duyên dáng chào mời các quan trạng, các tiến sĩ tương lai. Trong số các sĩ tử ấy, chắc chắn sẽ có người đoạt tam khôi. Bảng vàng, bia đá, danh thơm muôn đời. Các cô gái ngồi sau những quầy hàng kia, trong lòng cô nào chẳng thầm mơ ước mình lọt vào mắt xanh của các vị đại khoa, mà tương lai chẳng còn xa xăm gì nữa. Các phố Hàng Vải thâm, Hàng Khăn lúc nào cũng nườm nượp người vào ra mua sắm. Nhưng đông hơn cả vẫn là phố chợ Cầu Đông(3). Đây vốn là một phố buôn bán sầm uất, trên bến dưới thuyền. Đây cũng là phố có nhiều nhà trọ, hàng quán. Suốt từ sáng sớm đến tối khuya, không lúc nào qua đây không thấy mùi thơm xào nấu, mùi thịt nướng, thịt quay … Tiếng cười giòn giã, tiếng chào mời chèo kéo, tiếng í ới gọi nhau lên đò, xuống đò. Tiếng xe ngựa rậm rịch. Vắng nhất trong các phố phường vào những ngày thi cử, là phố Hàng Lọng. Các sĩ tử không một ai ló mặt qua đây. Vì ai cũng sợ lỡ ra, các chủ hàng mời mua lọng, thì thật là xui. Bởi vậy, Hàng Lọng các nhà đều đóng cửa im ỉm. Nhưng đằng sau những khuôn cửa đóng kín kia, các tay thợ, các gia nhân làm túi bụi ngày đêm không hết việc. Và tới khi kéo bảng để danh rồi, các nhà ở đây đều mở tung cửa đón khách. Tới lúc này, lại không một phố nào lộng lẫy và đông vui bằng phố Hàng Lọng. Vì rằng các quan trạng, thám hoa, bảng nhãn… một khi đã nhận ÂN TỨ VINH QUI(4) ai chẳng phải mua cho mình một chiếc lọng, để về bái tổ gia hương.
Tháng hai, hoa xoan nở tím cả kinh thành, muỗm đã kết trái xanh non. Hoa chanh, hoa bưởi vẫn còn ngan ngát hương thơm. Người tứ xứ kéo về kinh thành đông nghẹt. Lều chõng, gánh gồng, bầu, níp giăng giăng. Tới lúc này sĩ tử đều phải có mặt hết ở kinh sư, để độ mươi ngày nữa là khoa thi bắt đầu. Dân kinh thành náo nức mong chờ xem quan trạng đầu tiên sẽ là ai. Và người ấy tài giỏi đến mức nào. Tin đồn đích thân hoàng thượng sẽ chấm các bài xuất sắc nhất để chọn tam khôi, càng làm cho kinh thành chộn rộn lên cái không khí của hội đua tài.
Túa về kinh sư đủ thứ đủ hạng người. Nào văn nhân, sĩ tử. Nào nhà buôn. Nào các giáo phường. Sĩ tử cũng chia làm năm bảy hạng. Người giàu có thì ngựa xe, võng cáng, kẻ hầu người hạ. Người bậc trung thì tiểu đồng quẩy theo tay nải áo quần, bút nghiên. Người nhà gánh gạo, gánh chõng lều, lốc thốc đi theo. Đến như những người nghèo túng lại rớt mấy khoa thi trước, tuổi vừa cao, vừa gò lưng gồng gánh tất cả các thứ, như một cái ngựa thồ.
Đất Thăng Long văn vật, đón nhận một cách hào phóng sĩ tử từ bốn phương về dự tuyển. Quan đại an phủ sứ của kinh sư đã cho dựng mười hai dãy nhà ở phía sau Quốc tử giám, để đón nhận và cung phụng những hàn sĩ không đủ tiền vào nhà trọ. Lại sức cho các nhà hàng quán trọ, không được tăng giá tiền ăn tiền trọ, đối với các sĩ tử và thân nhân. Tuy vậy, nhiều nhà phú hào, nhà buôn, vừa mang tính hào phóng đất kinh sư, vừa thầm mong phúc ấm lại có một vị đại khoa nào đó đoái tưởng đến con gái mình, thường ra đường chào đón, mời gọi các hàn sĩ về nhà mình trú tạm. Trong suốt thời gian nho sinh lưu trú tại các tư gia ấy, đều được đón tiếp, phục dịch thật là ưu hậu, thật là nồng nhiệt, với tất cả sự hào hoa của đất kinh sư văn hiến.
Khoa thi này nhà vua đích thân kiểm xét các mặt, nên các quan từ sở tại cho tới các đài, sảnh, viện, các… đều lo chạy xốn xáo, cốt sao mọi việc thật chu toàn trước khi hoàng thượng ngó tới. Quan chánh chủ khảo đã cho nhóm họp các thuộc lại tới ba lần. Nói rõ các chức phận của từng người, từ viên Di phong(5), Khảo tự hiệu(6), Đằng lục(7) đến các quan Thí viện(8), Khảo viện(9) ai nấy đều phải thuộc nằm lòng các phần việc được giao phó.
Không khí văn vật trùm phủ khắp đất Thăng Long. Không một người dân nào không mong có dịp được làm một nghĩa cử, đối với các tao nhân mặc khách, từ muôn phương về kinh sư tụ hội. Nhiều nhà sáng sớm đã nấu nước chè khiêng ra đầu đường, để khách qua lại tiện dùng. Không thiếu các nhà ngày nào cũng làm sẵn dăm bảy mâm cơm, để nếu có khách quen, khách lạ ghé vào là có thức ăn ngay. Khách bốn phương, ai gặp khó khăn thiếu thốn gì, chưa kịp bầy tỏ hết lời, đã được bà con phường phố sẵn sàng đáp ứng. Người Thăng Long vốn hào hoa như thế đấy.
Được tin bữa nay nhà vua sẽ giảng kinh sách tại toà Ngự Diên(10), từ sáng sớm sĩ tử đã nườm nượp kéo nhau vào ngồi kín từ trong nhà tới ngoài sân.
Kiệu vừa hạ xuống trước toà Ngự Diên, người ngồi chật cứng từ cổng không có lối vào. Quân thánh dực thét ầm ầm, lính hổ bôn xông vào đám đông ra roi định dẹp. Thái tôn vội ra hiệu cho viên đô giám bắt lính ngừng tay. Nhà vua ôn tồn bảo viên đô giám:
- Các ngươi không dạy quân phải biết giữ lễ với kẻ sĩ. Có biết những người này là như thế nào không? Nhà vua chỉ về phía sĩ tử hỏi, và nhìn viên đô giám với vẻ trách móc - Họ là tinh hoa của đất nước, là bộ óc của cả dân tộc. Mai đây họ sẽ là những người nắm giữ các trọng trách quốc gia mà lũ ngươi dám coi thường, thét mắng như một đám ăn mày. Không nể, vì có giới sĩ phu cả nước về đây, ta phải cho treo cổ ngươi, để làm gương cho những đứa càn dỡ dám coi thường kẻ sĩ. Nói rồi Thái tôn đi vào toà Ngự Diên. Sĩ tử dẹp lối cho nhà vua đi, và mọi người đồng thanh hô: “Hoàng thượng thiên tuế! … Thiên tuế… !"