Bão táp cung đình, chương 28 cont
Thái tôn vừa ngồi vào chiếc ghế cao trên toà giảng, ngài đưa mắt nhìn khắp một lượt từ trong nhà ra ngoài sân. Phần đông họ là những người trai tráng, mặt mũi khôi ngô tuấn tú. Những gì suy nghĩ hoặc lo toan đều hiện hết trên các khuôn mặt. Nhà vua có thể đọc tâm tư họ như đọc các trang tạp biên thực lục(11). Nhìn kỹ, nhà vua thấy có những ông già râu tóc bạc phơ. Loáng thoáng có cả mấy đứa trẻ chỉ trên mười tuổi. Thái tôn lấy làm lạ. Ngài tự nghĩ: “Tài năng gì mà đám trẻ chưa ráo đầu máu đầu kia cũng dám chen vào đây?”. Rồi ngài tự trả lời: “Hẳn là chúng phải vượt được các kỳ thi hương, thi hội rồi quan trường mới cho vào đây chứ. Ôi, nếu quả bọn trẻ kia thật sự có tài thì phúc cho nước nhà lắm lắm”. Nhà vua sung sướng tự hỏi: - “Thời thịnh chăng”- “Thần đồng xuất hiện chăng?”.
Bắt đầu buổi thuyết giảng của mình, Thái tôn không đi hẳn vào một kinh sách nào cả. Vì việc đó, sĩ tử đã nghiền ngẫm thấu đáo. Nhà vua chỉ hỏi xem, có ai còn mắc vướng điều gì chưa hiểu trong năm kinh(12), bốn sách(13), ngài sẽ giảng giải cho. Tức là nhà vua chỉ giải đáp kinh nghi(14) mà thôi. Điều đó, đủ nói kiến thức của nhà vua đã đạt tới chỗ uẩn ảo lắm, thâm viễn lắm.
Suốt một ngày dẫn dụ xong, nhà vua ôn tồn nói:
- Ta vui mừng vì sĩ tử cả nước đều cố công rèn rũa đạo học, ngõ hầu đem tài trí ra phụng sự quốc gia, dân tộc. Để tỏ rõ sự khuyến khích của triều đình đối với sĩ tử. Bắt đầu từ khoa này, nhà nước sẽ lấy tam khôi. Đích thân ta chấm, chọn. Ngoài ra, cứ theo tài năng xếp thứ bậc cho đỗ vào hàng thái học sinh(15). Thái tôn vừa nói tới đây thì thấy sĩ tử có vẻ nhớn nhác nhìn ra ngoài. Nhà vua cũng đưa mắt, chợt thấy Quốc Tuấn và theo sau là công chúa Thiên Thành đang bước vào nội thất. Nhà vua tự hỏi: “Quốc Tuấn đi nghe bình văn đã đành. Lại em gái ta cũng yêu thích thi thư? Thật là một sự lạ. Sự lạ”.
Quốc Tuấn từ khi về kinh, nổi danh là một trang tuấn kiệt. Tài kiêm văn võ. Sáu tuổi chàng đã biết làm thơ. Nay thì lục thao tam lược, không gì là không thông hiểu. Sĩ tử nghe danh Quốc Tuấn đã tỏ lòng ngưỡng mộ từ lâu. Nay được diện kiến, làm gì mà chẳng xôn xao. Chàng có dáng người cao, to. Khuôn mặt vuông vức. Mắt sáng như sao. Cặp mắt to hơi xếch. Lông mày rậm. Nước da sáng lúc nào cũng hồng hào. Môi đỏ như tô son. Quốc Tuấn có giọng nói sang sảng vang ấm như tiếng chuông. Lời nói đanh gọn. Toàn bộ người chàng toát lên một vẻ uy nghi đường bệ, nhưng lại có sức hấp dẫn lạ lùng. Chàng đi tới đâu, từ trẻ đến già đều mến mộ. Nhất là các cô gái con các đại gia, thầm ước ao được gần gũi. Từ khi chàng về ở với công chúa Thuỵ bà, công chúa Thiên Thành tuy sống trong nội điện, nhưng thường lui tới viếng thăm. Hai cô cháu quyến luyến nhau lắm. Thiên Thành tuy là cô ruột, nhưng lại là con út của thượng hoàng Trần Thừa. So ra còn thua Quốc Tuấn tới vài ba tuổi. Thiên Thành đang độ tuổi cập kê, nhan sắc nàng rực rỡ như một đóa phù dung. Bữa nay nàng mặc áo thụng thắt đai ngọc, may bằng thứ nhiễu Hàng Châu màu hồng nhạt, tóc đen mềm mại buông xoã hai bờ vai. Quần màu thiên thanh. Chân dận hài nhung màu tím nhẹ, nạm hạt châu lấp lánh. Cổ đeo vòng ngọc bích nạm vàng. Nom nàng như một đóa hoa biết đi. Nàng tới đâu là hương thơm dìu dịu tỏa ra. Cứ như mùi thơm tho ấy toát ra từ da thịt nàng. Hiện thời nàng là bông hoa rực rỡ nhất kinh thành. Nghe đâu bên nhà Nhân Đạo vương, đã đánh tiếng với hoàng thượng xin nàng về cho Trung Thành vương(16). Giới sĩ tử không những hâm mộ sắc đẹp của công chúa Thiên Thành, mà còn ngưỡng mộ Quốc Tuấn, ai cũng mong được gần gũi, được kết bạn với chàng.
Khi thấy đám sĩ tử đã ngồi yên, Quốc Tuấn, Thiên Thành cũng chăm chú nhìn về phía nhà vua, Thái tôn lại tiếp:
- Ta mong sĩ tử cả nước hãy gắng gỏi lên. Mùa thu này ta sẽ mở thêm khoa thi tam giáo. Ai đỗ, cho xuất thân(17). Ta nghĩ rằng Đạo học của nước ta dựa trên căn bản của tinh thần tam giáo. Phải biến cái tinh tuý của cả ba đạo lớn đó cùng với nền văn hoá truyền thống của nước ta thành một Chính đạo, một Thiệân đạo của Đại Việt. Các quan chức nắm giữ bộ máy nhà nước của ta, không thể không thông hiểu tam giáo. Nói xong nhà vua xuống đàn. Sĩ tử lại toả ra khắp nơi về nhà trọ.
Khi mặt trời lên tới đỉnh đầu, quan đề điệu cho đọc thể lệ trường qui, để hôm sau sĩ tử vào cuộc đua tài. Cả kinh thành bừng lên không khí của ngày hội…
Qua kỳ thi, Khảo viện lọc tất cả được bảy quyển ưu nhất, đệ trình lên hoàng thượng chọn lấy tam khôi. Cân nhắc suốt hai ngày đêm, Thái tôn lựa được ba quyển mà nhà vua cho là ưu việt nhất, và đã khuyên vào đó các chữ Nhất - Nhị - Tam.
Sợ rằng việc chọn lựa của mình có phần chưa chuẩn mực lắm, nhà vua cho Khảo viện minh xét lại một lần nữa. Các quan giám khảo, đồng giám khảo sau nửa ngày phân giải đều cho rằng sự thẩm định của nhà vua là sáng suốt.
Sau buổi kéo bảng đề danh, các tân khoa được vào điện Thiên An diện kiến hoàng thượng.
Trước cửa điện, quan đề điệu lại xướng từng tên. Bắt đầu từ trạng nguyên.
Tiếng quan đề điệu vang vang:
Nguyễn Hiền(18) – trạng nguyên. Quan đề điệu xướng đến lần thứ ba, thì có một cậu bé mặt mũi khôi ngô bước vào thềm điện.
Thái tôn sửng sốt nhìn cậu bé đi vào, với dáng đi chững chạc.
Quan đề điệu xướng tiếp:
- Lê Văn Hưu(19), bảng nhãn.
Một chàng trai tuấn tú, mà còn đậm lông tơ, bước tiếp theo quan trạng.
Lại xướng:
- Đặng Ma La(20) thám hoa lang.
Một cậu bé mặt đẹp như một viên ngọc minh châu bước tiếp theo tân khoa bảng nhãn.
Không những nhà vua mà cả Khảo viện đều không tin ở mắt mình nữa. Thái tôn sau một phút bàng hoàng, nhà vua tự nghĩ: “Đây là trời cho các thần đồng xuống giúp nhà Trần”.
Hoàng thượng sung sướng bước ra khỏi ngai vàng, đích thân ban áo mũ cho quan trạng, bảng nhãn, thám hoa lang.
Không lường trước được lại có hai cậu bé trúng tam khôi, nên áo mũ thuần may sắm cho người lớn. Thành thử quan trạng và thám hoa lang chỉ một chiếc áo đã trùm phủ quá người, rộng thùng thình, còn mũ thì trống trếch trùm sụp xuống cả mặt. Hỏi ra quan trạng Nguyễn Hiền mới có mười ba tuổi. Và thám hoa lang Đặng Ma La, mười bốn tuổi.
Tin đồn chiếm tam khôi kỳ này là ba cậu bé phút chốc bay khắp kinh thành. Dân chúng phố phường đất Thăng Long đổ ra đường để ngóng đợi phút đi dạo của các đại tân khoa, đáp lễ dân chúng kinh kỳ(21). Tin bay đến phủ thái sư. Phu nhân lòng khấp khỏi mừng vui. Bà muốn nhìn tận mắt sự lạ, bèn lên kiệu đi liền. Kiệu của phu nhân vừa tới cổng điêïn Thiên An thì quân cấm vệ ra ngăn lại. Bọn thị nữ và lính hầu phủ thái sư lập tức tiến lên đẩy tên lính ra. Rồi cả đoàn cả lũ cứ nhao nhao sỉ vả tên lính.
- Đồ ngu, mày không biết kiệu của ai mà giám cản.
- Đồ súc sinh dám phạm thượng.
- Chúng tao mà bắt mày về phủ thái sư thì mọt gông con ạ.
Mặc cho bọn người hầu phu nhân ra sức chửi mắng, người lính cấm vệ vội chạy ra kéo sợi dây hạ lá chắn cổng xuống. Tiện tay giật tiếng chuông. Phu nhân tỏ vẻ bực tức ló ra ngoài kiệu quát mắng.
- Lũ kia! Khôn hồn mở cửa cho kiệu của quốc mẫu vào điện diện kiến hoàng thượng!.
Đúng lúc đó viên quan đô giám nghe tiếng chuông đã chạy bổ ra xem xét. Y nghe rõ tiếng thét mắng giận dữ của quốc mẫu. Y cho quân kéo lá chắn lên rồi phủ phục trước kiệu và nói lớn.
- Tâu lệnh bà. Chúng con không giám trái ý lệnh bà. Nhưng thân vệ tướng quân đã ra lệnh cho chúng con, cổng chính này chỉ có kiệu thiên tử đi qua. Còn kiệu các quan đi cổng bên. Con xin mở liền để kiệu lệnh bà qua ngay bây giờ. Nói rồi viên đô giám tự mình săm săm đi mở cửa ngách.
Khi giận bốc lên, mặt đỏ phừng phừng, phu nhận lại quát:
- Lũ sâu bọ to gan lớn mật. Quân bay khiêng kiệu vào chính môn.
Thấy tình thế nguy ngập. Bên ngoài thì lính phủ thái sư nhao nhao xô đẩy. Chỉ còn vài bước nữa là họ dẫn kiệu qua chính môn. Ngặt vì trong điện Thiên An, nhà vua đang ban mũ áo cho các vị đại khoa, nên không thể kéo chuông cấp báo. Viên đô giám liều mạng đứng chắn trước cổng, kiếm tuốt trần, giọng đanh thép, y nói:
- Ta phụng quân mệnh, trấn giữ cửa này. Ai muốn vào phải bước qua xác ta. Đám thị nữ và lính tráng phủ thái sư thấy y lăm lăm tay kiếm, mặt đỏ như gấc, mắt nhìn nảy lửa, đều có ý chờn không dám tiến nữa.
Phu nhân lửa giận bừng. Song bà tự biết là quân cấm vệ không cho qua. Bà muốn mách với thái sư bắt quân kia về trị tội cho bõ giận.
Ném vào mặt tên đô giám một cái nhìn khinh bỉ, phu nhận thét quân: - Lui!
Vừa thấy phu nhân ra đi, nay đã ầm ầm trở lại, thái sư vội ngó ra xem. Phu nhân vội vàng xuống kiệu săm săm đi vào. Trần Thủ Độ ân cần hỏi:
- Thế nào, bà đã có gì ban thưởng cho quan trạng chưa?
Dường như chỉ chờ có thế. Phu nhân oà khóc. Vừa khóc vừa đay nghiến:
- Giời ơi, tôi là vợ ông thái sư thống quốc. Tôi là mẹ vợ, là cô của đức vua. Nhà vua lại ban tặng cho tôi là quốc mẫu. Thế mà cả ông thái sư, cả đức vua để cho bọn lính nó làm nhục vợ mình, làm nhục quốc mẫu của mình.
Trần Thủ Độ không biết đầu đuôi câu chuyện ra sao, còn đang ngơ ngức, phu nhân lại thét gào:
-Ôâng thái sư thống quốc ơi, tôi giả ông tất cả. Tất cả cơ nghiệp này, tôi về làng. Cái làng Ngừ của tôi, đứa nào hỗn xược, tôi vặn cổ. Chứ cái triều đình của ông láo nháo lắm.
Trần Thủ Độ đã thấy nóng nóng phía vành tai. Ông gọi bọn thị nữ, lính kiệu đến hỏi. Chúng thuật lại đầu đuôi câu chuyện vừa xảy ra, cũng có thêm thắt chút ít. Cốt là để mượn oai thái sư trị bọn lính cấm vệ dám hỗn hào, dám coi thường bên phủ thái sư. Từ trước, bọn lính hầu bên phủ thái sư có cái kiểu vênh váo thế. Cứ như thái sư và phu nhân là bề trên của đức vua, thì chúng nó cũng tự coi mình được ở trên bọn lính cấm vệ một bậc.
Nghe xong thái sư hầm hầm tức giận, cho đi bắt viên đô giám và tên lính cấm vệ giải về. Được tin thái sư cho lệnh bắt, thân vệ tướng quân Trần Khuê Kình tự tay đóng gông mấy người đó dẫn sang phủ thái sư. Khuê Kình nói với thuộc hạ của mình:
- Sự việc có thế nào, các ngươi cứ thế mà tâu trình, không thêm bớt nghe chưa?
Mấy người thuộc hạ run sợ dạ ran. Viên đô giám khi đã bình tâm lại, liền hỏi:
- Bẩm tướng quân. Vâng lời dạy của tướng quân, chúng tôi giữ nghiêm phép nước. Sao lại nói là chúng tôi phạm tội? Sao lại đóng gông chúng tôi như một lũ tội đồ.
- Vẫn biết thế! Vẫn biết thế! Khuê Kình ôn tồn nhắc lại đến hai lần – Các ngươi phải biết phu nhân là bậc quốc mẫu, đến vua cũng phải kính cẩn. Để ta lựa lời nói với thái sư. Ta chịu trách nhiệm cả. Ta không bỏ các người đâu mà lo. Nhưng cũng phải biết cái thế của mình.
Tới phủ thái sư. Khuê Kinh vào bẩm và xin nộp mấy viên thuộc hạ. Khuê Kinh nói:
- Bẩm đức ông, tiểu tướng thật có tội với đức ông.
Trần Thủ Độ vẫy tay cho tất cả vào thềm điện và sai mở gông cho mấy người lính. Đoạn ông nói:
- Khi chưa xét xử ngay gian, chưa biết người ta có tội hay không có tội, sao tướng quân lại đóng gông họ như là kẻ tội phạm?
Bọn lính tráng và thị nữ phủ Thái sư lúc nãy bị chặn lại, giờ đang lấp ló ở ngoài dè bỉu:
- Cho chúng mày chết.
- Chúng mày cứ là mọt gông con ạ.
- Mất đầu con ạ.
Nghe tên lính cấm vệ và viên đô giám thuật lại với thái độ kính cẩn và run sợ, ăn năn, Thái sư đã thấy dìu dịu. Trần Thủ Độ bèn phái người tới Đăng văn viện(22), gọi kiểm pháp quan sang xét xử.
Kiểm pháp quan là một ông già đầu hói xúng xính trong bộ áo thụng đen, đầu đội mũ bình thiên, tay chống cây gậy trúc đùi gà nhẵn bóng. Kiểm pháp quan có bộ mặt xương xương, chòm râu dài tới ngực, trắng như bông. Nom quan ngài già nua lắm. Duy có đôi mắt của người là sắc sảo. Đôi mắt trong sáng lạ lùng như có thể nhìn thấu tận tim gan người khác. Đôi mắt ông bộc trực như là hiện thân của công lý. Theo ông là một viên tuỳ phái, bê trĩu tay bộ Quốc triều hình luật.
Kiểm pháp quan làm việc. Ông nói vài lời về việc mọi người từ vua tới dân, ai ai cũng phải tôn trọng luật pháp. Rồi ông cho đối chất.
Lính hầu phủ Thái sư nói trước. Thấy không khí cực kỳ nghiêm trọng, bọn này cũng không dám thêm thắt như lúc đầu trình với thái sư. Tiếp đến là lính bên phủ Thân vệ tường trình.
Kiểm pháp quan quay về phía phu nhân hỏi.
- Bẩm lệnh bà, chẳng hay đôi bên tâu bầy như vậy có đúng như sự thật đã diễn ra không?
Vẫn chưa nguôi nỗi bất bình. Phu nhân gật đầu xác nhận, và chỉ buông một tiếng: “Đúng!”
Kiểm pháp quan hỏi tên lính cấm vệ:
- Ai dạy ngươi, chính môn chỉ có kiệu thiên tử mới qua được?
- Bẩm pháp quan, thầy đô giám dạy con.
Kiểm pháp quan lại hỏi viên đô giám:
- Ai dạy ông điều ấy? Đô giám vòng tay đáp:
- Trình pháp quan, thân vệ tướng quân dạy chúng tôi. Vừa nói, viên đô giám vừa đưa mắt nhìn về phía Trần Khuê Kình.
Kiểm pháp quan vuốt chòm râu bạc gật gù. Ông từ tốn nghiêng đầu về phía Trần Khuê Kình hỏi.
- Thưa tướng quân. Sở cứ vào đâu mà tướng quân răn dạy thuộc hạ như thế?
Nghe kiểm pháp quan xét hỏi, phu nhân thấy trong lòng đã bảy tám phân hồi tĩnh lại. Bà nghĩ “Kẻ kia không biết trên dưới phải trái là gì. Nay trước cửa công, thầy trò đã phải cúi đầu. Phải, cứ lấy phép công trừng trị, bọn chúng mới mở mắt ra được, kẻo không rồi chúng lại bảo ta, thừa thế uỷ quyền”.
Bọn thị nữ và lính hầu phủ thái sư nghe pháp quan gặng hỏi thầy trò thân vệ tướng quân, trong lòng chúng như nở ra từng khúc ruột. Chúng thập thò, ngấp nghé phía ngoài đại sảnh, đứa nọ nhìn đứa kia nháy mắt, mỉm cười.
Thái sư Trần Thủ Độ lòng vẫn lặng trong. Chính ông mới là quan tòa cao nhất. Ông không muốn kiểm pháp quan vì ông mà vít cong cán cân công lý. Ông cũng không cho phép người ta đụng đến thanh danh của vợ ông. Bởi chưng, nay người ta coi thường vợ ông, thì mai sẽ đến lượt ông.
Nghe pháp quan hỏi rành rõ từng lời. Thân vệ tướng quân Trần Khuê Kình đứng thẳng người với tư thế của một vị tướng liền đáp:
- Thưa ngài Kiểm pháp quan thay mặt cho pháp đình tôn nghiêm. Tôi được bề trên thường răn dạy: “Người làm việc nước phải lấy phép nước làm trọng, không được để cho tình riêng hoặc vật dục làm cho mờ tối lương tâm”. Chính vì thế, tôi đã răn dạy các thuộc hạ tôi phải giữ nghiêm phép nước. Đúng là tôi đã dạy họ như thế.
Không khí im phăng phắc mà căng như một sợ dây đàn. Kiểm pháp quan, gõ chiếc gậy trúc ba lần xuống thềm điện, rồi nói:
- Thưa tướng quân, tôi lưu ý tướng quân, khi tòa án pháp đình làm việc, là căn cứ vào luật định, chứ không phải căn cứ vào lời khuyên bảo của bề trên nữa. Một lần nữa, tôi nhắc lại:
- Xin tướng quân cho biết: Căn cứ vào đâu mà tướng quân răn dạy thuộc hạ của mình như vậy?
Thân vệ tướng quân rướn người về phía Kiểm pháp quan, nói từng lời minh bạch:
- Thưa ngài Kiểm pháp quan tôn kính, tôi căn cứ vào thiên Triều nghi trong Bộ hình thư của Quốc triều, ban hành năm Canh dần (1230) đang nằm trong tay quý quan đó.
Nghe Khuê Kình đối đáp, Trần Thủ Độ giật thót mình. Một giây sau, ông đã lại lấy điều đó làm vui. Vì rằng Khuê Kình thân làm tướng mà cũng nắm vững luật pháp. Lại biết dạy thuộc hạ, lính tráng biết giữ nghiêm pháp luật. Ông thật không mong gì hơn điều đó.
Kiểm pháp quan khi nghe Trần Khuê Kình biện bác trôi chảy, khiến ông lúng túng. Rõ ràng là tướng quân và thuộc hạ không có lỗi. Người có lỗi ở đây là phu nhân và bọn gia thuộc ỷ thế lộng hành. Ông khéo lựa lời:
- Bẩm thái sư và phu nhân tôn quý. Sự thể vậy đã rõ ràng. Thân vệ tướng quân và thuộc hạ làm đúng những điều đã ban trong “Quốc triều hình luật”. Xin thái sư thẩm định.
Nói xong, ông ý tứ rút lui khỏi bục. Viên tuỳ phái hấp tấp bê bộ hình thư lẽo đẽo theo sau.
Trần Thủ Độ miễn cưỡng đứng dậy. Mặt ông hơi ửng đỏ. Dường như có sự tự hổ thẹn về người vợ của mình, ông nói:
- Ta có lời khen thân vệ tướng quân, đã răn dạy thuộc hạ có thể thống. Phép nước vì đó được nghiêm giữ. Ta sẽ tâu xin hoàng thượng đặc cách ban cho tướng quân tước hai tư. Còn viên đô giám và tên lính kia, các ngươi ở địa vị thấp hèn cũng biết giữ nghiêm phép nước. Ta còn biết nói thế nào nữa. Gọi có một chút quà thưởng cho hai ngươi - Nói rồi, thái sư sai gia thuộc đưa vào bốn tấm lụa, hai đĩnh bạc. Phu nhân đã lủi ra từ lúc nào không ai biết.
================.
1.Tam khôi - ba học vị cao nhất thời xưa: Trạng nguyên, bảng nhãn, thám hoa lang. Đời Trần lấy tam khôi bắt đầu từ khoa Đinh mùi.
2. Thượng nguyên: ngày lễ vào rằm tháng giêng.
3. Phố tại bến sông. Tương đương với Hàng Đường, Hàng Ngang, Hàng Buồm ngày nay.
4. Các vị đỗ đại khoa, từ thái học sinh (tiến sĩ) trở lên, vua ban cho mỗi người một cái biển bằng gỗ có khắc bốn chữ: “Ân tứ vinh qui” sơn son thiếp vàng. Mỗi người được sắm hai cái lọng; riêng quan trạng được sắm ba lọng. Thường là việc chi về lễ vinh qui của các đại khoa, đều do các quan đầu tỉnh có các vị tân khoa bỏ tiền công ra chi phí.
5. Di phong: Viên giữ việc dán kín tên ở các quyển thi để người chấm không biết được quyển của ai.
6. Soạn tự hiệu: Viên giữ việc biên số hiệu vào các quyển thi.
7. Đằng lục: Người giữ việc viết lại các quyển thi.
8. Thí viện: Gồm các quan đề điệu, giám thí.
9. Khảo viện: Gồm các giám khảo, đồng khảo.
10. Ngự Diên: Toà nhà để vua giảng các kinh sách cho các quan trong triều nghe. Vì khoa thi này sĩ tử kéo về đông, lại về trước thời hạn để tập văn. Nên nhà vua cho mở cửa toà Ngự Diên và đích thân Thái tôn thuyết giảng để đo lường sức học của nho sinh.
11. Tạp biên thực lục: Ghi chép các việc trong ngày, giống như ghi nhật ký ngày nay.
12,13. Xem chú thích ở chương XIX.
14. Kinh nghi: Hỏi những điều còn ngờ trong các kinh.
15. Tương đương với tiến sĩ sau này.
16. Trung Thành vương là con của Nhân Đạo vương.
17. Có nghĩa là được bổ nhiệm ra làm quan.
18. Nguyễn Hiền 13 tuổi, người huyện Thượng Nguyên (Nam Định).
19. Lê Văn Hưu 18 tuổi, người huyện Đông Sơn (Thanh Hóa).
20. Đặng Ma La 14 tuổi, người huyện Mỹ Lương.
21. Lệ xưa khi các tân khoa nhận sau khi nhận áo mũ vua ban, sẽ được lên kiệu đi một vòng quanh phố xá kinh sư để đáp lễ dân chúng kinh kỳ. Và đêm được dự dạ yến vua ban ngay trong vườn thượng uyển.
22. Đăng văn viện: Là cơ quan giữ việc tra xét các hình án. Đến đời Thiệu phong (1343) mới đổi thành Đình uý tự.