Từng Thề Ước (Tập 2) - Chương 14 - Phần 3
Cỏ dại mọc đầy dưới nền đất rải đá xanh, không ai cắt xén, lại thêm sương đêm ướt đẫm, A Hành giẫm lên đám cỏ ướt sũng, liền trượt chân ngã nhào.
Nàng định đứng dậy nhưng vừa gượng dậy, cổ chân đã đau buốt, lại ngồi phịch xuống. Đột nhiên, nước mắt A Hành trào ra như mưa, nàng không dám khóc ra tiếng, đành gắng sức kìm lại, kìm nén đến nỗi cả người run lên lẩy bẩy, chỉ thấy từ trong ra ngoài đều buốt giá đến tận xương tủy, tựa hồ rơi xuống hố băng vậy.
Thiếu Hạo vội vàng đứng dậy, định chạy đến đỡ nàng, chợt phát hiện có người nấp trong rừng dâu, “Ai đó?” Xi Vưu rất giỏi ẩn nấp, Thiếu Hạo lại đang hoảng hốt tâm thần, vốn không hề phát hiện ra, nhưng trông thấy A Hành trượt ngã, Xi Vưu đương lúc khẩn trương, quên cả thu liễm khí tức.
Thấy Thiếu Hạo đã phát hiện ra mình, Xi Vưu chẳng buồn né tránh, cứ thế hiên ngang hiện thân. Hắn chỉ hờ hững liếc qua Thiếu Hạo rồi đi thẳng về phía A Hành, coi Thiếu Hạo như không khí, kéo nàng đứng dậy.
A Hành cứ ngỡ là Thiếu Hạo, dụng lực định đẩy ra, nào ngờ lại là Xi Vưu, hai tay nàng bất giác biến đẩy thành nắm, nắm chặt lấy cánh tay hắn, chứa chan nước mắt nhìn Xi Vưu, vẻ mặt đau đớn bơ vơ như muốn tìm một nơi nương tựa, để trút bỏ đau thương không cách nào chịu đựng.
Xi Vưu ôm lấy A Hành, không nói một lời, chỉ siết chặt lấy nàng, siết thật mạnh, như muốn dùng hơi ấm của mình sưởi ấm cõi lòng nàng, giấu nàng vào máu thịt mình, không để nàng phải chịu bất kỳ đau khổ nào nữa.
A Hành gục đầu vào cổ Xi Vưu, cắn mạnh vào vai hắn, khóc lặng đi. Nước mắt nàng trào ra như suối, không có vòng tay ấm áp của hắn, trái tim nàng đã chẳng còn đơn độc lạnh lẽo nữa.
Thiếu Hạo ngẩn ra nhìn Xi Vưu và A Hành, nhưng trong mắt hai người bọn họ chỉ có nhau. Y đành lặng lẽ quay người, ưỡn thẳng lưng, ngẩng cao đầu, từng bước từng bước đi khỏi, duy có ánh mắt vẫn tan tác hư vô.
Huyền điểu chở y bay vút lên không, đêm nay trăng nhạt sao sáng, muôn ngàn ngôi sao lấp lánh hệt như muôn ngàn ngọn đèn lung linh, y ngửa mặt nhìn lên cả trời sao sáng, chợt bật cười như điên dại, cười đến gập cả người, suýt nữa thì ngã xuống. Ngàn vạn ngọn đèn trên sông nước Cao Tân đều an toàn, nhưng ngọn đèn cuối cùng của y đã hoàn toàn tắt lịm!
Bảy ngày sau, theo lệ tục, phải làm lễ tế Xương Phó.
Xương Phó giết Đồng Ngư thị tội không thể tha, nhưng nàng đã lấy mạng đền mạng. Nhờ A Hành thuyết phục, cuối cùng Hoàng Đế cũng hạ lệnh phóng thích tất cả chiến sĩ Nhược Thủy tộc bị giam giữ, còn cho phép bọn họ dự lễ tế Xương Phó, có điều không được trở về Nhược Thủy nữa, mà trở thành thị vệ bên cạnh Chuyên Húc, mãi mãi ở lại Hiên Viên sơn.
Hoàng Đế đích thân tới dự lễ tế Xương Phó, nghi thức do Chuyên Húc thực hiện dưới sự chỉ dẫn của Tiểu Tông Bá, nhưng Chuyên Húc lần lữa mãi vẫn không chịu bắt đầu, nói phải đợi cô cô.
Tiểu Tông Bá giục giã mấy lần, Chuyên Húc chỉ mím môi không nói. Trước khi cậu đi, cô cô đã dặn: “Con đi trước đi, cô cô phải đi lấy mấy thứ cho mẹ con, để mẹ con an tâm đi cùng cha con.”
Hoàng Đế hờ hững đứng ngoài quan sát.
Chuyên Húc toàn thân vận đồ tang, đứng ngay đầu tiên, gương mặt nhỏ đanh lại. Có lẽ vừa phải trải qua hai cái tang lớn, cặp mắt cậu đượm vẻ chín chắn trước tuổi, ánh mắt nhìn người khác luôn luôn lạnh lùng, đầy cảnh giác và thăm dò, bởi tuổi còn quá nhỏ, chưa biết che đậy nên vẻ sắc bén bức người đó của cậu lại càng khiến người ta kinh hãi.
Tiểu Tông Bá nhìn giờ, không dám lần lữa thêm nữa, bèn hạ lệnh cử hành nghi thức, nào ngờ Chuyên Húc đã bước lên trước, cương quyết tuyên bố trước tất cả mọi người: “Ta nói khi nào bắt đầu thì khi nấy mới được bắt đầu!”
“Nhưng còn giờ giấc…”
Chuyên Húc trừng mắt nhìn Tiểu Tông Bá, “Người nằm đây là cha mẹ ta, ta phải làm chủ!”
Tiểu Tông Bá không nói được nửa lời, lúng túng đưa mắt nhìn Hoàng Đế, nào ngờ Hoàng Đế chẳng nói gì, chỉ chăm chú nhìn Chuyên Húc.
Hoàng Đế còn nhớ lần đầu tiên nhìn thấy Chuyên Húc là lúc cậu còn quấn tã, ông ôm Chuyên Húc vào lòng, phát hiện thấy cậu rất mẫn cảm với tiếng đàn, khi nhạc sư cung đình đàn sai một nốt, Chuyên Húc thuở ấy còn chưa biết nói đã cau mày. Hoàng Đế ngỡ rằng tính tình Chuyên Húc cũng giống như Xương Ý, chỉ mê mải với những thứ vô dụng cầm kỳ thi họa, từ đó chẳng ngó ngàng gì đến cậu nữa. Nhưng lần này, Hoàng Đế đã bắt đầu nhìn Chuyên Húc bằng con mắt khác.
Hôm nay cũng là ngày tế lễ Đồng Ngư thị, nhưng Luy Tổ là vương hậu, Thanh Dương là Hoàng Đế tương lai trong lòng mọi người, Hoàng Đế lại loan tin ra ngoài là Xương Phó bị thương trên chiến trường, thương thế quá nặng mà qua đời, nên lễ tế đương nhiên cũng phải long trọng hơn Đồng Ngư thị “bệnh nặng mà chết” nhiều.
Trước mộ Đồng Ngư thị vắng tanh, chỉ có một mình Di Bành đang quỳ.
Thấy A Hành tiến lại, Di Bành quát: “Cút xa ra!”
A Hành chẳng buồn để ý tới hắn, vẫn đến bên mộ. Di Bành nổi giận, liền vung quyền đánh A Hành, chiêu nào chiêu ấy đều chí mạng, “Ngươi tới đây diễu võ dương oai chứ gì?”
A Hành vừa tránh vừa đáp: “Ta diễu võ dương oai cái gì đây? Diễu võ dương oai rằng ba người anh ruột của ta đều bị các ngươi hại chết ư? Diễu võ dương oai rằng mẹ ta đã bị mẹ ngươi ép đến nỗi mạng sống chỉ còn sớm tối ư?”
Di Bành nghi hoặc hỏi: “Ngươi nói bậy gì thế? Chẳng phải Thanh Dương vẫn sống sờ sờ ra đó ư?”
“Đại ca chết rồi, khi ngươi bày kế khiến phụ vương hiểu lầm rằng Đại ca định đầu độc phụ vương, huynh ấy đã uống phải thuốc độc, đúng lúc giao đấu với Xi Vưu thì độc dược phát tác, Đại ca chết dưới tay Xi Vưu.”
“Vậy Thanh Dương bế quan trị thương dưới đáy Quy khư là giả à?” Di Bành phá lên cười ha hả, cười đến đứt cả hơi, “Mẹ, mẹ nghe thấy chưa? Hung thủ hại chết ca ca con đã chết! Mụ già ác độc ấy cũng sắp chết rồi!”
A Hành lạnh lùng quan sát, Di Bành cười chán, mới đưa mắt nhìn A Hành, hỏi: “Cứ theo tính tình của ngươi, đây hẳn là tế lễ ngươi tặng cho ta. Tiểu muội à, ngươi định giết ta thế nào đây?”
A Hành đáp: “Ta đã ra tay rồi.”
Di Bành cười: “Ta tin, nhưng ta không hiểu.”
“Mấy ngàn năm trước, mẹ ta đã kết bái huynh muội với Viêm Đế, khi ông ấy lâm bệnh nặng, bèn đem Thần Nông Bản Thảo Kinh kết tinh tâm huyết cả đời tặng lại cho ta.”
Di Bành sực hiểu ra, “Hèn chi ngươi có thể trì hoãn ngày sinh của đồ con hoang kia, nhưng dù có Thần Nông Bản Thảo Kinh, cũng không thể dễ dàng hạ độc ta được.”
“Ta biết, nhưng ngươi quên rồi sao? Chúng ta từng học cùng một thầy, ta nắm rõ cách vận hành linh khí của ngươi. Chất độc dược chia làm hai phần, phần thứ nhất, chính là ở đây.” A Hành nhìn về phía mộ Đồng Ngư thị, “Mấy ngày nay ngươi luôn quỳ ở đây suốt đêm, trong lúc thương tâm, linh lực hộ thể cũng yếu đi nhiều, tà khí rất dễ xâm nhập.”
“Đây là mộ huyệt có linh lực gia trì, nếu có độc nhất định sẽ xảy ra biến hóa.”
“Phải, nên thứ ta dùng không thể gọi là độc dược, ngược lại còn là thuốc bổ, rất có ích trong việc nâng cao linh lực, có thể giúp linh lực của ngươi tăng vọt chỉ trong một khoảng thời gian ngắn. Vừa rồi ta vừa tiết lộ với ngươi rằng Thanh Dương đã chết, khiến ngươi kích động, trong lúc cười sằng sặc đã hít phải rất nhiều thứ không nên hít phải, những thứ đó cũng không phải là độc dược, nhưng khi gặp phải dược chất trong cơ thể ngươi, lại kết hợp với phương thức vận hành linh lực đặc thù của ngươi nữa, sẽ dẫn tất cả linh lực của ngươi tụ về tim, sau cùng, tim ngươi sẽ không chịu đựng nổi linh lực mạnh mẽ của bản thân mà nổ tung.”
Thấy Di Bành sững người, A Hành lại nói: “Ta là đồ đệ của Viêm Đế Thần Nông Thị, chứ không phải đồ đệ của Cửu Lê Độc vương, không nhất thiết phải hạ độc mới có thể lấy mạng người.”
Sống đã chẳng có gì vui, thì chết có gì đáng sợ? Di Bành cười, ngưng tụ linh lực toàn thân, toan một chưởng đánh chết A Hành, “Vậy cũng hay, chúng ta cùng lên đường thôi!”
A Hành đứng yên không nhúc nhích. Chưởng lực của Di Bành mới đánh xuống nửa chừng, hắn đã ngã gục trước mộ.
Tất cả linh lực vừa rồi hắn ngưng tụ đều cuộn lên đổ về tim, huyết quản trong ngực cơ hồ muốn vỡ tung, đau đến nỗi hắn co rúm người lại.
Di Bành ra sức khắc chế linh khí chạy loạn trong mình, sắc mặt từ trắng đổi sang xanh, lại từ xanh đổi sang đỏ, vô số linh khí tựa như vô số con rắn độc cắn xé trái tim hắn, khiến cơ mặt hắn giật giật vì đau đớn.
A Hành ngồi xuống bên cạnh Di Bành, ánh mắt vô cùng phức tạp, nàng hận hắn, nên mới bày ra cách chết đầy đau đớn này dành cho hắn, nhưng hiện giờ nhìn hắn đau đớn vật vã, lòng nàng cũng đau khổ chẳng kém.
“Di Bành, nếu ta không giết ngươi, ngươi có hạ sát thủ với Chuyên Húc chăng?”
Di Bành đau đến méo mặt, nhưng vẫn cười sằng sặc, hung hăng đáp: “Có! Mẹ nó đã giết mẹ ta, sao ta có thể tha cho nó được? Các ngươi đều phải chết… Á á!” Di Bành đau đến nói không nên lời, hai tay bắt đầu cào cấu lên ngực. Y phục đều bị hắn xé rách, để lộ vết thương trên vai trái, là năm vết thâm tròn tròn, nhìn giống hệt một dấu thần chú.
A Hành chợt biến sắc mặt, hai mắt ầng ậng nước.
“A… A…” Di Bành đau đớn thét lên, ngã xuống dưới chân A Hành, cả ngươi co rúm ró, vết thương trên vai càng hiện rõ hơn.
A Hành run rẩy đưa tay ra, đặt lên vai Di Bành, truyền linh lực vào cơ thể hắn, toan làm giảm đau đớn. Di Bành vung tay hất nàng ra, “Ngươi cút ra!” Nàng vẫn chẳng hề tránh né, mặc cho Di Bành đánh đã, tay áo bị hắn xé toạc, lộ ra cả cánh tay. Trên cánh tay nàng cũng có một vết thương, giống hệt vết thương trên vai Di Bành, trông như nửa dấu chân thú vậy.
Cánh tay Di Bành đang định đánh vào tay nàng, chợt khựng lại.
Linh lực của A Hành bắt đầu phát huy tác dụng, cơn đau dần dần dịu hẳn. Cơn đau lui đi, dường như cũng cuốn theo tất cả bi thương oán hận trong lòng, trái tim hắn tựa hồ biến thành một đầm nước trong veo, ánh mặt trời rọi xuống, xuyên qua thời gian dằng dặc, nhìn thấu tận đáy đầm, nơi đó, có một cậu thiếu niên vô tư vô lự, còn chưa biết ưu sầu.
Phụ vương quy định cho hắn và A Hành cùng nhau đọc sách, còn chọn cho cả hai một vị sư phụ, nhưng mẹ lại cấm hắn nói chuyện với A Hành. Mỗi sáng A Hành đều nấp bên góc tường đợi hắn, cùng hắm nắm tay nhau tới lớp.
Chiều hè, cả hai lại cùng nhau nhảy từ trên cây cầu cao ngất xuống nước, đọ xem bọt nước của ai làm bắn lên to hơn. Mùa đông tuyết rơi, hai người cùng nằm lăn ra trên mặt tuyết, dùng sọt úp chim tước. Hắn tặng A Hành con anh vũ mình yêu thích nhất, A Hành cũng thêu hầu bao cho hắn, một chiếc hầu bao có tua tuyệt đẹp.
Trên núi vắng mọc đầy cỏ dại là khu vườn bí mật của họ, cùng đuổi nhau, cùng bắt bướm, cùng vồ dế, đào giun, A Hành gọi “Cửu ca, từ từ thôi”, hắn sẽ gọi “A Hành, mau lên”.
Có lẽ vì mẹ và các anh đều cấm họ chơi chung, mà cả hai lại quá bướng bỉnh, nên càng cấm họ càng thân thiết. Rõ ràng rất thân nhau, nhưng mỗi lần cả nhà họp mặt, đều phải lờ nhau đi, vờ như không quen, đợi đến nơi không có ai, lại nhìn nhau cười, lén làm mặt quỷ chòng nhau, hí hửng vì cha mẹ và các anh không biết bí mật nhỏ của họ.
Mỗi lúc ăn cơm cùng, vì ngang hàng, hai người ngồi cạnh nhau, chẳng ai dám nói với ai câu nào, nhưng dưới gầm bàn lại lén lút ta đẩy ngươi, ngươi đánh ta, cùng mím môi cười vụng.
Nghe nói Tượng Võng thúc thúc bắt được một con yêu quái rất lợi hại, cả hai rủ nhau trốn học đi xem đại yêu quái, hai mái đầu chụm lại, thì thầm bàn tính một lát đã ra được vô số âm mưu quy kế, gạt được tất cả thị vệ. Hai người lẻn vào, vô ý phá vỡ cầm chế, khiến con yêu quái hung bạo xông ra. Cả hai sợ cuống quýt, vội co cẳng chạy như bay. A Hành mặc váy nên chạy không được nhanh, bị yêu quái vồ được, bẻ gãy lìa tay. Hắn ngoảnh lại nhìn A Hành, thấy nửa nửa người A Hành toàn máu là máu, vẫn không quên hét bảo hắn: “Cửu ca, chạy mau, chạy mau!”
Hắn vô cùng sợ hãi, rất muốn bỏ chạy, nhưng hắn còn sợ A Hành bị yêu quái ăn thịt hơn, bèn chạy ngược lại cứu A Hành, nhảy tưng tưng, huơ huơ tay trước mặt yêu quái, “Đến đây, đến đây, đến mà bắt tao đây này!”
Con yêu quái bị chọc giận, bèn bỏ lại A Hành đuổi theo hắn. Hắn chạy không thoát, liền bị yêu quái tóm được, móng vuốt sắc nhọn của nó xuyên thủng cả vai hắn, chưa hết, một chân kia của nó sắp cắm ngập vào tim hắn. A Hành kéo lê cánh tay gãy, nhảy vọt lên vai yêu quái, ra sức nện vào mắt nó, vừa nên vừa khóc: “Cửu ca, Cửu ca, huynh có đau không?”
Hắn không muốn tỏ vẻ yếu đuối như con gái, bèn gắng gượng làm mặt quỷ với A Hành, vờ như không hề gì, hít một hơi khí lạnh, nói: “Con yêu quái này cũng lợi hại ghê.”
Nhìn hắn làm mặt quỷ, A Hành phá lên cười.
May sao Tượng Võng thúc thúc đến kịp, cứu được hai đứa. Tuy thúc thúc cùng các anh đều xin cho, nhưng phụ vương vẫn vô cùng giận dữ, đem nhốt cả hai lại, còn nói thầy thuốc không được chữa lành sẹo cho hai người, để cả hai trông thấy mà nhớ kỹ lời người lớn.
Những tháng ngày cùng nhau học hành, cùng nhau nô đùa, cùng nhau đối phó với cha mẹ, cùng nhau lừa gạt các anh trai…
Di Bành nắm lấy tay A Hành, vẻ mặt hoang mang vô hạn, tựa hồ không hiểu sao bọn họ lại thành ra thế này.
“A Hành.” Di Bành khẽ gọi. Từ khi Tam ca Hiên Viên Huy chết đi, hắn vẫn khách khí gọi nàng là tiểu muội.
A Hành ròng ròng nước mắt, “Cửu ca.” Từ sau khi Thanh Dương chết đi, đây là lần đầu tiên nàng thật lòng xem hắn là anh trai.
Di Bành mỉm cười, “Nếu chúng ta không bao giờ lớn lên thì hay quá, ta thực muốn được quay về ngày nhỏ như xưa.”
Linh lực của A Hành không kiềm chế nổi linh lực của Di Bành nữa, cơn đau lại tăng lên, Di Bành nhẹ nhàng gỡ thanh chủy thủ A Hành đeo bên eo, cũng chính là thanh chủy thủ Xương Phó dùng để tự vẫn, gắng chút sức tàn đâm thẳng vào ngực mình, “A Hành, con yêu quái lần này lợi hại quá, chúng ta đều thua cả rồi.”
“Cửu ca, Cửu ca…”
A Hành hốt hoảng gọi, mắt nhòe nhoẹt nước mắt, đột nhiên, Di Bành lè lưỡi làm mặt quỷ với nàng.
Gương mặt quỷ bỗng cứng đờ, trở thành lời cáo biệt vĩnh hằng.
“Cửu ca!” A Hành ôm lấy Di Bành, khóc không ra tiếng.
Trên triền núi, bươm bướm dập dờn, một đôi thiếu niên thiếu nữ đang chạy nhảy trong gió, tiếng cười rộn rã lan xa.
A Hành, A Hành, mau lên, mau lên!
Cửu ca, Cửu ca, từ từ, từ từ thôi!
Ha ha ha ha… Ha ha ha ha…
Dưới sự cố chấp của Chuyên Húc, mọi người đành đứng đợi trước mộ Xương Ý và Xương Phó.
Trông thấy A Hành sắc mặt tái nhợt, lảo đảo tiến lại, Tiểu Tông Bá lập tức tuyên bố bắt đầu nghi thức.
Trong tay A Hành nắm chặt một thanh chủy thủ nhuộm máu là lễ vật nàng và Thiếu Hạo tặng cho Xương Ý và Xương Phó nhân ngày thành hôn, là thanh chủy thủ đâm chết Đồng Ngư thị, cũng là thanh chủy thủ Xương Phó dùng để tự vẫn, nhưng hôm nay, sao nó lại nhuốm máu?
Trong tiếng nhạc ai oán, A Hành cắm phập thanh chủy thủ trước mộ, “Tứ tẩu, tẩu yên tâm đi cùng Tứ ca đi, không còn ai có thể làm hại Chuyên Húc nữa đâu.”
Người khác không hiểu nàng đang nói gì, chỉ mình Hoàng Đế biến sắc mặt: “Hành nhi, rốt cuộc con đã làm gì hả?”
“Con kết thúc tất cả mọi chuyện rồi!” A Hành đứng đó, thân mình lảo đảo như thể gió thổi cũng ngã, nhưng gương mặt lại quật cường lạnh lẽo đến không ngờ.
Hoàng Đế giật thót mình, vội quay phắt người chạy về phía mộ Đồng Ngư thị.
Hồi lâu sau, chợt nghe trong rừng sâu vọng ra một tiếng kêu thê lương mà ngắn ngủi. Thân mình A Hành lảo đảo như sắp ngã, nhưng nàng vẫn cắn lưỡi, gắng gượng đứng vững.
Nàng bế Chuyên Húc lên, “Chúng ta về nhà thôi, về xem bà nội và Tiểu Yêu thế nào.”
Chuyên Húc nắm lấy thanh chủy thủ bằng cả hai tay, “Vậy còn cái này? Để lại cho mẹ con à?”
“Con giữ lấy mà hộ thân, để mẹ con được yên lòng.”
Chuyên Húc ôm lấy thanh chủy thủ, khóe môi mím chặt, chăm chú nhìn ngôi mộ cha mẹ, kiên quyết gật đầu như thầm hứa.
A Hành vừa đặt chân vào Triêu Vân điện, Hoàng Đế đã xách kiếm bám theo sát gót.
Chẳng để đám thị nữ bẩm cáo, Hoàng Đế xông thẳng vào, vung kiếm toan lấy mạng A Hành, Chu Du định ngăn lại mà không ngăn nổi, Cửu Dao hoảng sợ khóc ré lên, vừa khóc vừa cùng Chuyên Húc một trái một phải ôm ghì lấy chân Hoàng Đế, nhưng chẳng cản được bước chân ông.
A Hành ngồi yên bất động, ngẩng đầu chăm chú nhìn Hoàng đế, không hề sợ hãi.
Hoàng Đế giơ cao kiếm, bàn tay run bắn lên, vung kiếm định chém xuống.
“Ông muốn giết thì giết tôi trước đi!” Giọng già nua yếu ớt của Luy Tổ chợt vang lên.
Thì ra, Vân Tang thấy tình hình không ổn, lập tức chạy đi tìm Luy Tổ, bấy giờ nàng vừa đỡ Luy Tổ hớt hải chạy đến.
Hoàng Đế giật mình, nhát kiếm lệch đi, không chém trúng A Hành. Ông ngoảnh lại trừng mắt nhìn Luy Tổ, trỏ vào A Hành hỏi: “Bà có biết nó đã làm gì không? Nó giết Di Bành ngay trước mộ Đồng Ngư đấy, máu Di Bành loang đỏ cả nấm mộ…” Hoàng Đế run giọng, không nói tiếp được nữa.
Luy Tổ lạnh lùng hỏi lại: “Ông đã điều tra chưa? Sao có thể không truy xét gì đã định tội cho Hành nhỉ?”
Hoàng Đế cười thâm, giễu cợt hỏi: “Còn cần tra xét nữa ư?” Ông trợn mắt nhìn A Hành, “Là mày làm phải không?”
A Hành thản nhiên nhìn Hoàng Đế, hờ hững hỏi: “Phụ vương thấy thế à? Ngàn năm trước, khi Nhị ca chết đi, nếu phụ vương có thể trả lời rõ ràng câu hỏi của Đại ca, thì đâu có câu hỏi ngày hôm nay.”
Hoàng Đế chợt run bắn lên, thanh kiếm trong tay keng một tiếng rơi xuống sàn: “Mày đã không còn là Hành nhi con gái ta nữa rồi!” Ông trừng trừng nhìn A Hành, thê lương nói: “Sau khi Vân Trạch chết đi, ta đã sợ rằng sẽ có ngày này. Ta bất chấp mọi người phản đối, cố ý cho mày và Di Bành học chung một thầy, để cả hai cùng học cùng chơi, cùng nhau lớn lên, chính là hy vọng không xảy ra sự việc ngày nay.”
Đoạn ông tóm lấy cánh tay A Hành, “Nhìn thấy vết thương này không? Còn nhớ Di Bành đã cứu mày thế nào không? Ta lệnh cho thầy thuốc không chữa lành sẹo, không phải để trừng phạt hai đứa bướng bỉnh, mà là để hai đứa suốt đời phải ghi nhớ, hai đứa là huynh muội, một giọt máu đào hơn ao nước lã!” Nói rồi ông ném cánh tay A Hành xuống: “Vết thương này cả đời mày cũng không xóa được, ngày ngày mày sẽ phải ghi nhớ rằng mày đã giết chết Di Bành, mày cứ ôm lấy ký ức ấy mà sống đi, sống một ngày là đau khổ một ngày!”. Dứt lời, Hoàng Đế quay phắt người, rời khỏi Triêu Vân điện.