Gia đình Penderwick ở phố Gardam - Chương 05 - Cuộc hẹn đầu tiên

CHƯƠNG NĂM

Cuộc hẹn đầu tiên

Sau khi thay bộ đồng phục bóng đá, Jane gom góp mấy món đồ thiết yếu - một quả táo, một cái bút và một quyển vở màu xanh - rồi đi lên cuối phố Gardam. Em đang trên đường đến Rừng Quigley, nơi em yêu thích nhất trên khắp thế gian.

Rừng Quigley là mười hécta rừng hoang tuyệt đẹp nằm giữa thành phố Cameron. Ngày nay không ai còn nhớ gia đình Quigley là ai hay khi còn sống ở đó họ đã làm gì. Dấu vết duy nhất còn sót lại của họ là những bức tường đá thấp nằm rải rác trong rừng - vì thế có lẽ nhà Quigley trước kia đã từng là nông dân, hoặc người chăn gia súc, hoặc như Jane vẫn thích tưởng tượng ra, có thể họ là những nhà quý tộc chạy trốn khỏi cuộc Cách mạng Pháp, tuy nhiên em chưa nghĩ ra được lí do chính đáng giải thích tại sao các quận công và quận Pháp lại có tên là Quigley. Dù sao thì bây giờ khoảng rừng này cũng thuộc quyền sở hữu của bang Massachusetts, nhưng vì lối đi chính dẫn vào rừng nằm ngay gần ngõ cụt của phố Gardam nên bọn trẻ trên phố Gardam luôn coi khu rừng là lãnh thổ của riêng mình.

Trong khu phố có một quy định bất thành văn, đó là trước khi lên mười thì không được một mình đi vào Rừng Quigley, và ngay cả khi đã đủ mười tuổi rồi thì cũng không được đi sâu vào trong mà không có người lớn, hay ít ra là một thanh niên, đi kèm. Tất cả đều biết “đi sâu vào trong” nghĩa là gì - vượt qua con suối rộng chảy róc rách cắt ngang dải đường mòn chính, cách lối vào khoảng bốn trăm mét. Tuy thế khu vực còn lại vẫn chẳng khác nào một vương quốc thiên nhiên rộng mênh mông, tha hồ cho ta chơi đùa, và Jane cùng các chị em biết rõ từng cái cây, từng hòn đá, từng chỗ trũng trên mặt đất.

Hôm nay em đang trên đường đến chỗ em gọi là Tảng đá Thần. Mặc dù đã lên mười, em vẫn chắc chắn về sự tồn tại của phép thần, và tin rằng nếu ở bang Massachusetts này còn lại chút phép thần nào thì hẳn nó đang được che giấu trong tảng đá đó. Các chị em của Jane không biết gì về chuyện này - Rosalind lớn quá rồi, không thích hợp với các chuyện phiêu lưu thần tiên nữa, Batty thì nhỏ quá, còn Skye thì đã từ bỏ phép thuật vào cái này em khám phá ra phép chia.

“Xin chào”, em nói khi đến đích. “Là tôi, Jane đây”.

Em đang ở giữa rừng, tại một khoảng trống hình tròn tràn ngập hoa cúc dại và các khóm hồng leo lưu niên được gia đình Quigley bí ẩn trồng từ thuở xa xưa. Nhưng những bông hoa cúc và hoa hồng, cho dù có đẹp đến thế nào đi nữa, thì vẫn bị lu mờ trước Tảng đá Thần của Jane, nằm ở chính giữa khoảng trống. Tảng đá rất to - thậm chí còn cao hơn Jane, và bề ngang cũng rộng không kém - với vô số tảng đá nhỏ hơn chất đống xung quanh. Jane tin chắc một tảng đá lớn như vậy phải có lịch sử hết sức kì thú. Có khi nó là tảng đá trời từ thiên đường rơi xuống Rừng Quigley này cũng nên. Các tảng đá nhỏ hơn thì em không dám chắc. Có lẽ chúng đã được hút đến đây bởi một lực nam châm kì diệu nào đó toát ra từ tảng đá lớn, và vĩnh viễn phải chịu cảnh làm kẻ hầu người hạ, nằm dưới chân tảng đá lớn để tỏ lòng tôn kính nó.

“Và tôi đem đến một thứ để dâng cho người”.

Em trèo lên các tảng đá nhỏ hơn, rồi quỳ gối và thò tay xuống, sờ soạng dưới mặt tảng đá to. Nhiều năm trước em đã khám phá ra một khe hở thiên tạo ở dưới đó, vừa đủ rộng cho tay em lách vào, và vừa đủ sâu để làm một nơi giấu đồ tuyệt hảo. Em chỉ giấu vào đó một số thứ nhất định trong kho báu của mình, những thứ có nhiều khả năng nhất sẽ cảm thấy hạnh phúc khi được ở trong những môi trường thần kì. Ví dụ như những vỏ ốc em đã sưu tập được ở Cape Cod (1) vào mùa hè cuối cùng mẹ em còn sống; con búp bê Anjulee tội nghiệp đã bị Skye bẻ gãy đầu; cây bút em dùng để viết cuốn truyện Sabrina Starr đầu tay; và cả quả bóng khúc côn cầu trên băng của đội Bruins mà Tommy bỏ lại trên lối vào nhà Penderwick mùa đông năm ngoái. Em đã nhiều lần tưởng tượng ra cảnh cậu băn khoăn không biết chuyện gì đã xảy ra với quả bóng khúc côn cầu trên băng đội Bruins của mình, và em có thể đáp lại, kìa, anh Tommy, em đã giữ gìn nó cho anh suốt bao lâu nay.

(1. Thành phố du lịch ven biển nổi tiếng của Mĩ, thuộc bang Maine.)

Khe hở đây rồi - em đã tìm thấy nó. Và giờ thì đến tặng phẩm của em. Em lôi mấy tờ giấy ra khỏi túi áo nỉ và nhét chúng vào sâu bên trong tảng đá.

“Vì người đã bảo vệ các báu vật của tôi, hỡi Đá Thần, nên xin người hãy nhận thêm thứ đáng sợ này, xin hãy tẩy uế và tước hết mọi quyền năng của nó”.

Tặng phẩm của Jane ngày hôm đó là bài văn Những người phụ nữ nổi tiếng trong lịch sử bang Massachusetts, bài văn đã làm em bị nhận một điểm C. Bất chấp những gì bố em đã nói về ông Tolstoy cùng Chiến tranh và hòa bình, Jane vẫn cảm thấy bài văn với điểm C to tướng đỏ chót ấy chính là một lời nguyền, một tai ương ám lên cuộc đời em. Em vẫn còn nhiều bài văn khác phải nộp cho cô Bunda - làm sao em có thể bắt đầu một bài khác khi vẫn còn bị bài văn kinh khủng này ám ảnh chứ? Nhưng nếu có một thứ gì đó khả dĩ phá bỏ một lời nguyền thì Tảng đá Thần này cũng có thể. Nó đã từng làm được mà. Như cái lần cô bạn Emily của em bị ốm, Jane đã đặt một bức ảnh của bạn ấy vào trong tảng đá, và ngay ngày hôm sau Emily đã khỏe lên nhiều.

Thế nhưng thỉnh thoảng tảng đá cũng tỏ ra hơi thất thường. Mới gần đây thôi, khi Jeffrey trên đường đến trường nội trú Boston và tiện thể ghé vào Cameron chơi, Jane đã dẫn cậu đến đây. Hai đứa đã vẽ chân dung lão Dexter lên một tờ giấy và bỏ nó vào trong tảng đá. Chúng hi vọng tảng đá có thể xóa bỏ tính khí xấu xa của Dexter, hoặc hay hơn cả là làm cho lão ta biến mất luôn. Nhưng một tuần sau, Jeffrey gọi điện từ Boston đến báo tin mẹ cậu và Dexter vừa làm lễ cưới và đang chuẩn bị cho kì trăng mật kéo dài ở châu Âu.

Jane không đổ lỗi cho tảng đá, vì dù bằng cách này hay cách khác thì em và Jeffrey vẫn không đả động gì đến chuyện cưới xin, cũng không bảo tảng đá đến lúc nào thì nên để cho lão Dexter mất hết tính xấu xa của mình. Theo như những gì em biết thì mười năm nữa lão ta cũng có thể trở thành người tốt được chứ, nhưng lúc đó thì gần như chẳng còn quan trọng gì nữa. Tuy nhiên, em đã quyết định khi cầu xin một điều gì đó thì em cần phải nói cụ thể hết mức.

“Và, Tảng đá thân yêu ơi, xin đừng bao giờ để cho bất kì bài văn nào của tôi bị điểm C nữa. Xin cảm ơn. À quên! Xin cũng đừng để bị điểm D hay E. Xin cảm ơn một lần nữa. Bạn của người, Jane”.

Giờ em đã cầu nguyện xong, nhưng vẫn còn một nghi lễ cần được thực hiện, cái nghi lễ em vẫn làm một khi đến đây một mình. Em chưa bao giờ đạt được kết quả, nhưng điều đó không thể khiến em thôi cố gắng. Vậy là em trèo lên tảng đá to, ngồi xếp bằng trên đỉnh và giơ hai tay lên trong một tư thế mà em nghĩ là một kiểu cầu nguyện xin-hãy-đến-với-tôi.

“Ôi Aslan (1)”, em nói. “Tôi chờ đợi người”.

(1. Con sư tử thần, nhân vật trong tác phẩm Biên niên sử xứ Narnia của nhà văn C. S. Lewis.)

Em nhìn quanh quất, và khi không thấy con sư tử vàng từ xứ Narnia nào xuất hiện, em lại giơ tay lên. “Ôi Psammead (2), tôi chờ đợi người”.

(2. Con vật thần sống trong cát, có khả năng biến điều ước thành hiện thực, trong bộ truyện thiếu nhi Năm đứa trẻ và con vật (1902) của nhà văn Edith Nesbit.)

Cũng như vậy, khi không có sinh vật cáu kỉnh sống trong hố cát nào từ cuốn sách của nhà văn E. Nesbit lao ra trước mắt, Jane lại thử lần nữa. “Ôi Ngài Rùa (3), tôi chờ đợi người”.

(3. Nhân vật trong cuốn truyện Pháp thuật bên bờ hồ (1957) của nhà văn Edward Eager.)

Lần nào em cũng cho con rùa có khả ănng biến điều ước thành hiện thực trong truyện của Edward Eager nhiều thời gian hơn - đó là một con rùa cơ mà - bằng cách đếm đến một trăm. “Một, hai, ba…”.

“Chào em, Jane”.

Tay em rơi xuống và em suýt ngã lăn ra vì kinh ngạc. Chẳng lẽ những gì nhà văn Eager viết lại là sự thật hay sao? Nhưng người vừa cất tiếng nói không phải con rùa biết biến điều ước thành hiện thực, mà chỉ là Tommy Geiger, vẫn đóng bộ mũ bảo hiểm và đệm vai, tay ôm một quả bóng bầu dục.

“Xin chào vị anh hùng của vạch mười yard (1)”, Jane nói khi nhận ra mình cũng không cảm thấy quá thất vọng.

(1. 1 yard = 0,914 m. Sân bóng bầu dục được đánh dấu bằng các vạch 10, 20, 30, 40, 50 yard. Vạch 10 yard nằm gần vạch cầu môn nhất, và các cầu thủ phải đưa bóng đến càng gần vạch này càng tốt.)

“Anh không phải anh hùng. Em đừng nói những câu như thế nữa đi”.

“Anh là anh hùng thật mà”.

“Dù sao thì cũng đừng nói thế nữa”. Cậu ném quả bóng lên cao, rồi nhảy vụt lên để bắt lấy khi nó đang lơ lửng trong không trung.

“Thế thì anh thử nói mấy câu tiếng Nga xem nào”.

Odin, dva, tri, chyetyrye, pyat”.

“Ngôn ngữ của các Sa hoàng, anh Tommy! Anh vừa nói gì thế?”.

“Anh đếm từ một đến năm. Rosalind có đây không?”.

“Chỉ mình em”, Jane nói. “Tức là em ấy. Em muốn nói là chỉ có em, Jane, ở đây thôi”.

“Vì anh đang định luyện mấy động tác trên địa hình gồ ghề trong rừng, và anh nghĩ chị ấy sẽ muốn tập cùng anh”.

“Em sẽ tập cùng anh”.

“Em còn bé quá. Có lẽ để sau, Rosalind sẽ muốn tập cùng anh”. Cậu lại ném quả bóng lên, lần này còn cao hơn trước.

“Để sau thì chị ấy sẽ bận đấy”, Jane gay gắt nói. Nhưng rồi em lại hối tiếc vì giọng điệu đó của mình khi thấy Tommy bắt hụt và bị quả bóng đập vào đầu, dù cậu có đội mũ bảo hiểm thì chắc vẫn phải đau lắm. Để đền bù, em liền giải thích tại sao Rosalind lại bận - tức là giải thích về chuyến viếng thăm của dì Claire và cuộc xem mặt cô Muntz vào tối hôm đó.

“Ôi chà, bác Pen có một cuộc hẹn hò”, cậu nói khi em kể xong. “Tội nghiệp Rosalind”.

“Tội nghiệp tất cả bọn em chứ”. Jane thấy mình lại đang tỏ ra gay gắt.

Dường như Tommy không chú ý đến giọng nói của em. Các bài tập trên địa hình gồ ghề đang vẫy gọi, và cậu chào Jane lấy lệ rồi bỏ đi.

Giờ thì khoảng rừng đã trống trở lại, chẳng có ai ngoài Jane. Em cân nhắc không biết có nên tiếp tục triệu tập các sinh vật thần kì đến không, nhưng rồi em tự nhủ cho dù người khác có nghĩ gì đi chăng nữa thì mười tuổi cũng đã là khá lớn rồi, và như vậy cũng có nghĩa là đã quá lớn để còn tin vào những chuyện đó. Vì vậy, thay vào đó, em chén quả táo, cầm bút vở lên, dự định bắt đầu bài văn tiếp theo để nộp cho cô Bunda. Nhưng hai mươi phút sau, em vẫn ngồi y nguyên trên tảng đá, chăm chăm nhìn rừng cây. Vấn đề nằm ở chỗ đề bài là “Khoa học đã thay đổi cuộc sống của chúng ta như thế nào”, cái đề tài thậm chí còn nhạt nhẽo hơn cả “Những người phụ nữ nổi tiếng trong lịch sử bang Massachusetts” nữa. Nếu phải viết về khoa học thì tại sao em lại không được viết về việc Sabrina Starr phát minh ra một thiết bị có thể vô hiệu hóa các đầu đạn hạt nhân từ xa? Đó mới thật là câu chuyện hấp dẫn. Nhưng không may, cái bà già Bunda ngốc nghếch ấy sẽ lại cho em điểm C, hay một điểm còn kém hơn nữa là đằng khác.

Jane duỗi người trên tảng đá và nhắm mắt lại. Có lẽ nếu cứ nằm đó trên Tảng đá Thần, em sẽ nghĩ ra được một ý tưởng hoàn hảo cho bài văn. Nhưng mặt trời thật ấm áp, dễ chịu, và em đã thấm mệt sau trận bóng - giả làm Mick Hart lúc nào cũng khiến em phải dùng nhiều sức hơn thường lệ - và chẳng mấy chốc em đã mơ màng chìm vào một thế giới tươi đẹp nơi người ta đi tìm em chứ không phải các cô chị của em. Điều tiếp theo em biết là em đang bị Skye lắc mạnh để gọi dậy.

“Jane! Em đang làm cái quái gì trên tảng đá này thế?”.

Em nhặt lại cây bút đã lăn mất trong lúc em ngủ. “Viết bài văn của em”.

“Hừ, thật thế à. Bố đang chuẩn bị cho cuộc hẹn, nhưng bố không chịu đi cho đến khi chị tìm được em về. Tạ ơn trời đất, Tommy nói anh ấy đã gặp em ở đây, vì chị đi tìm em mệt lắm rồi”. Skye tuột từ trên tảng đá lớn lên một tảng đá nhỏ hơn, rồi nhảy xuống đất.

“Anh Tommy còn nói gì nữa không?”, Jane vừa chạy theo chị vừa hỏi.

“Chị không biết. Ai quan tâm cơ chứ? Nhanh lên!”.

Hai đứa phóng qua Rừng Quigley, lao ra khỏi ngõ cụt, và chạy đua xuôi phố Gardam để về nhà. Khi chúng đến các bậc thềm ở trước cửa, Skye dừng lại cảnh cáo.

“Nghe chị đây này”, em nói. “Bố đang rối tung cả lên và dì Claire muốn bọn mình giúp bố”.

“Lúc nào em cũng giúp bố mà”, Jane phản đối, nhưng khi cùng Skye vào phòng khách thì em đã hiểu ra vấn đề. Bố em chưa bao giờ trông lo lắng đến thế, kể từ cái hôm ông phải đến nha sĩ để nhổ hai cái răng. Và việc dì Claire với Batty tấn công ông bằng hai cái bàn chải lông hòng xóa bỏ mọi dấu vết của Cún cũng không có vẻ gì là cải thiện được tình hình.

“Jane, tạ ơn trời đất”, ông nói. “Bố tưởng bố đã để lạc mất một trong số các con rồi chứ. Tuy nhiên, bố cũng chợt nghĩ ra là nếu con bị lạc quá lâu thì bố sẽ có cái cớ tuyệt hảo để hủy bỏ cuộc hẹn chết tiệt này”.

“Con xin lỗi bố”, em nói. “Có còn cái bàn chải nào nữa để con dùng không ạ?”.

“Thôi, chải thế là đủ rồi”. Ông xua tay ngăn dì Claire và Batty lại. “Giờ thì có ai biết kính của bố ở đâu không?”.

“Con biết”, Rosalind nói, từ nãy đến giờ em chỉ quanh quẩn ở bên ngoài. Em lấy kính từ trên mặt lò sưởi xuống và nhẹ nhàng đeo lên mũi bố. Jane cho là Rosalind trông còn lo lắng hơn cả bố nữa.

“Giờ thì ít ra bố cũng có thể đọc được thực đơn bữa tối”, ông nói, đưa tay lên chỉnh lại kính.

Dì Claire lại cầm theo bàn chải tiến về phía ông. “Trên áo anh còn đến cả cân lông chó ấy”.

“Tệ quá. Nếu cô Muntz khó chịu vì chuyện lông chó thì rõ ràng cô ấy không phải người phụ nữ dành cho anh rồi”.

“Và anh chắc là anh sẽ không mặc com lê chứ?”.

“Bố ghét mặc com lê lắm”, Skye nói.

“Cảm ơn con, Trời Xanh (1), và bố cũng chẳng chút hứng thú gì với các cuộc xem mặt”.

(1. Bầu trời (Sky) và Skye đọc giống nhau.)

Chiếc đồng hồ đỏ trên mặt lò sưởi điểm năm giờ. Ông Penderwick đã hẹn sẽ gặp cô Muntz lúc năm giờ mười lăm. Đến lúc phải đi rồi. Ông hôn từng cô con gái một, rồi hôn cả Cún nữa - ông chưa bao giờ hôn Cún cả - và cuối cùng đến chỗ dì Claire.

“Em không nghĩ là chúng ta có thể hoãn chuyện này lại khoảng một năm nữa được hay sao?”, ông hỏi.

“Ý hay đấy”, Rosalind nói.

“Chúc anh vui vẻ, anh Martin”, dì Claire đáp.

“Thế còn…?”.

“Bọn em sẽ không sao đâu”. Dì Claire vòng tay ôm Rosalind. “Phải không, các cô gái?”.

“Đúng thế ạ”, Batty nói. “Buổi tối bọn con sẽ ăn mì ống với pho mát”.

“Thế còn ba đứa con?”, ông Penderwick hỏi.

“Tất cả bọn con sẽ không sao hết”, Skye cả quyết, và Jane gật đầu, cố tỏ ra nhiệt tình. Rosalind cũng gật đầu, nhưng chẳng có vẻ nhiệt tình chút nào.

“Thế thì bố đoán là bố đã sẵn sàng rồi. Bố, người sắp sửa từ trần, xin chào cả nhà”.

“Tốt”, dì Claire nói. Dì đẩy ông anh trai ra cửa trước, rồi tựa lưng vào cửa như thế ông sẽ xô vào vậy. “Rồi, các cô gái, giờ dì vui vẻ một chút nào”.

Thật không may, chuyện vui vẻ tối hôm đó có vẻ hơi khan hiếm. Món mì ống với pho mát ngon tuyệt - một hỗn hợp gồm cần tây, hành và ba loại pho mát khác nhau - rồi sau đó dì Claire dẫn cả bọn vào phố ăn kem hoa quả, nhưng suốt thời gian đó, chúng không thể không nhận thấy bố chúng vắng mặt và nhắc cho nhau nhớ tại sao. Khi quay về nhà, năm dì cháu lôi ra một đống phim, nhưng khi không ai đồng ý với ai là nên xem phim nào, và Skye và Batty suýt nữa đánh lộn chỉ vì chuyện ấy, thì dì Claire cuối cùng cũng mất kiên nhẫn và bắt cả bọn đi ngủ cùng Batty vào lúc bảy giờ rưỡi.

“Chị ngủ chưa?”, Jane cất tiếng hỏi trong bóng tối.

“Chưa”, Skye trả lời. “Chị không ngủ được”.

“Em cũng không. Em cứ lắng nghe mãi”.

“Chị biết”.

Giờ cả hai đứa cùng căng tai nghe ngóng, nhưng chỉ nghe thấy tiếng một cánh cửa kẽo kẹt mở ra ở cuối hành lang.

“Là chị Rosalind đấy”, Skye nói.

“Em biết rồi”.

Chúng chui khỏi giường và rón rén ra ngoài. Rosalind đang ở kia, quấn mình trong một chiếc chăn bông. Em mở chăn ra, và giờ thì ba cô bé ngồi ôm lấy nhau trên đầu cầu thang. Chỉ mấy phút sau, âm thanh mà tất cả bọn chúng chờ đợi đã vang lên - tiếng ôtô của bố đi lên lối dẫn vào nhà.

Ba chị em lùi vào trong bóng tối khi dì Claire bước vào tiền sảnh - hẳn dì cũng đang lắng nghe tiếng ôtô. Cửa trước mở ra và ông Penderwick bước vào.

“Thế nào, anh Martin?”, dì Claire hỏi.

Ông cười, nhưng tiếng cười của ông nghe như tiếng rên rỉ. “Cruciatus”.

“Làm ơn nói bằng tiếng Anh đi”.

Rồi hai người lớn đi vào phòng khách. Nếu ông Penderwick có dịch câu nói đó thì ba kẻ trên cầu thang cũng không nghe thấy. Skye và Jane nhìn Rosalind đầy hi vọng.

Em nhún vai. “Chị vẫn chưa học cruciatus”.

“Chị phải nhanh lên và học thêm tiếng Latin đi”, Jane nói. “Không thì bọn mình sẽ chẳng bao giờ biết được đang có chuyện gì đâu”.

“Có khi như thế lại hơn ấy chứ”, Skye vừa nói vừa ngáp.

“Không, chắc chắn là không, tuyệt đối không!”. Rosalind đứng phắt dậy, kéo chiếc chăn khỏi hai cô em. “Quay về giường đi và ngủ thật say vào. Ngày mai bọn mình sẽ có nhiều chuyện phải nghĩ đến đấy”.

Skye và Jane nhìn em hiên ngang bước về phòng.

“Nghĩ về chuyện gì nhỉ?”, Jane hỏi.

“Ai mà biết được?”, Skye lắc đầu. “Nhưng chị dám cá là chị sẽ chẳng thích thú gì”.

Hãy để lại chút cảm nghĩ khi đọc xong truyện để tác giả và nhóm dịch có động lực hơn bạn nhé <3

Sách giảm giá tới 50%: Xem ngay