Cánh Đồng Lưu Lạc - Đoạn 15.1
ĐOẠN 15
Chị Nga không biết có người đang theo sát chân mình, nên cứ chạy co ro trong gió. Chiếc nón lá già thỉnh thoảng lại bị gió lật nghiêng, khiến chị phải vừa chạy vừa giữ. Mưa đã ngớt nhưng vẫn còn thấm ướt lưng áo. Chiếc áo len gụ cũng thấm đẫm nước mưa. Không sao, tí nữa chị có thể hong khô ngay trên mặt bếp lò than của cửa hàng, chị vừa đi vừa mỉm cười một mình.
Đằng sau chị một quãng xa, ông lão cũng rảo chân theo sau. Thỉnh thoảng đến chỗ ngã rẽ, ông cố chạy lên để không bị mất dạng người ông đang tìm. Đến khi thấy người đàn bà rẽ vào cửa hàng ăn, ông đinh ninh chị vào ăn hàng. Ông thu xếp một chỗ ngồi bên dưới một mái hiên nhà kho, chờ đợi như một người qua đường trú mưa, nhất là trông ông trong bộ dạng một lão già hành khất như thế này.
Thấy chị Nga vào đã lâu, ông lão sốt ruột. Ông đứng dậy, hai chân đã tê cứng vì ngồi xổm quá lâu. Ông băng qua đường mon men nhìn vào bên trong. Tuy trời hãy còn sáng nhưng ánh đèn măng- xông sáng rực rỡ, khiến ông lão hơi bị loá mắt. Những người khách ăn quà lác đác đứng dậy, thỉnh thoảng mới lại có người vào, ai cũng lôi thôi một kiểu hành trang như khách vãng lai. Ông lão cũng vào, nhưng không định ăn gì, cũng chẳng có ai hỏi. Lạ nhỉ, hay là cô ấy lại biến đi đâu, hay lúc cco ấy trở ra, ông không nhìn thấy? Không nhẽ thế, ông không rời mắt khỏi ba cái cửa của cừa hàng kia mà. Chờ cho đến lúc một cô gái don bàn đến gần, ông đánh bạo đến gần hỏi khẽ:
- Này cô gì ơi?
Cô phục vụ mặc cái tạp dề trắng loang lổ nhìn ông, như chờ đợi. Thấy thế, ông lão lại ngập ngừng, khiên cô ta phải hỏi lại, giọng đĩnh đạc:
- Cụ – ăn – gì?
Ông lão giật mình, lắp bắp:
- Không, tôi không đói…
- Khổ quá, thế thì ra ngoài kia. Không ăn thì hỏi cái gì?
- Tôi… tôi hỏi khí không phải. Trong cửa hàng có chị cán bộ nào tên là Nga không hả cô?
- Nga nào? Không coa chị cán bộ nào tên Nga cả. Ông ra ngoài kia mà hỏi.
Ông lão thất vọngđinh quay đi thì cô phục vụ tạp dề loang lại xẵng giọng:
- Nga hả?
- Vâng! Ông quay lại khấp khởi.
- Có phải có một đứa con trai cùng đi không?
- Vân đúng đấy ạ!
- Hừ, thế mà bảo chị cán bộ? Có, có Nga đấy, nhưng mà Nga nắm than ở đằng sai kia kìa…
Cô phục vụ hất hàm ra phía sau, rồi ngoa ngoắt bưng chồng báy ô tô đi vào.
“Thế là đúng rồi! Thì ra cô ấy đã vào làm ở cửa hàng này. Nắm than à? Cũng tốt rồi. Cũng tốt cho cô ấy, và cũng tốt cho thằng con của ta! Thế mà bao nhiêu lần qua đây, ta không hề để ý. Thế là tôi tìm được cô rồi, cô Nga ơi… Bây giờ giữa thiên hạ này ta là chồng, cô là vợ, thăng Hận là con trai của ta. Nó là thằng nối dõi dòng họ Trần ta. Nó là thằng chống gậy đưa ta xuống mồ. Nhưng sao lại tênlà Hận nhỉ? Thì ra cô ấy hận ta! Cũng phải thôi. Nhưng cô đừng trách tôi, nếu đừng có chiến tranh, đừng có bắn nhau. Mà dù có đánh nhau kịch liệt đi nữa, thì sao thằng Kỳ lại hy sinh? Bao nhiêu người đi cũng khối người trở về đấy thôi! Ta vô phúc! Nếu không, thằng Kỳ có đi đánh nhau mà để lại đứa con cho ta, cho ta tthằng cháu nội. Mà nó chưa có con thì nó cũng đừng chết trận! Đừng chết, để mà về với vợ, mà sinh con đẻ cái cho ta… Nếu vậy thì đâu đến nỗi? Khổ thân tôi, khổ thân cô!”.
Ông lão cứ tiếp tục độc thoại giữa cửa hàng, nơi kẻ ra, người vào như thế, nếu như ông không nhìn thấy hai chàng trai Tĩnh và Thuận khi nãy ở ngoài quán nước đang đi vào cửa hàng. Ông vội lách qua một bên cửa (tất cả có ba cái cửa cơ mà), đi vòng ra bên đầu hồi, nhìn quanh thấy một đống gạch vụn, ngồi xuống. Từ đây ông có thể nhìn ra phía sau cửa hàng, nơi lô nhô nhà cửa. Mẹ con thằng Hận ở trong ấy. Chắc chắn rồi! Ông đinh ninh thế và bắt đầu nghĩ đến nước cờ của mình.
Có lẽ ông phải tìm gặp ngay cô Nga để khuyên nhủ cô ấy trở về làng. Không ai còn cười, không ai còn nhớ. Làng Sơn Cốt của ta tuy ác khẩu, cong môi nhưng cũng chả chấp lâu. Cứ về, cứ sống đàng hoàng, không sợ gì mấy đứa con gái lăng loàn, ác nhân của tôi. Chúng nó mà chành chẻ thì ông đuổi, ông từ, ông sẽ công khai nói cho cả họ, cả làng nước biết thằng Hận là con trai ông. Chứ ông mà sợ?
- Về đi, Nga ơi! Về làng, có nhà có ruộng cho con chúng ta. Nó sẽ lớn lên và nó sẽ biết cách cởi giải những trái ngang. Về đi, còn ông giáo, còn cha cô đang mòn mỏi trông tin cô đấy! Ừ thì ông giáo hận ông lão Tuân lắm, nhưng sự thể đã như thế rồi, lẽ nào ông cầm dao giết con gái ông? Ừ thì ông giáo đã đuổi thẳng cổ ông ra khỏi nhà, dù ông có quỳ xuống, tạ tội và nhận làm con rể ông giáo, nhưng lẽ nào ông ấy lại đuổi thằng cháu ngoại duy nhất của mình? Phải rồi, lấy ông giáo Hoan ra mà dụ, mà dỗ dành, thế nào cô ấy cũng quay về!
Ông lão cứ loanh quanh với ý nghĩ về nước cờ của mình. Nếu cô ấy nhất quyết không trở về làng thì sao? Cũng phải thôi, nói đi rồi nói lại, con dâu mà ngủ với bố chồng thì xưa nay, chả cứ gì làng Sơn Cốt, của mình, ở đâu người ta cũng có thể cạo đầu, bôi vôi mà thả cho trôi xuống Ba Quanh ấy chứ! Nếu thế thì ông sẽ ở lại đây để được trông nom thằng con ongcho đến ngày nó lớn, nó sẽ biết quê hương bản quán của nó mà về. Nếu thế thì ông sẽ về nhà, bán hết lợn gà, vườn ruộng, xe đạp… để lấy tiền đi với con, với vợ! Ông lão mỉm cười một mình, với con thì được, chứ mà với vợ thì… trơ quá! Nhưng mà có sao đâu, trông thế thôi lão mới có sáu mươi ba, còn cô Nga cùng đã ngoài ba mươi rồi. Ngày xưa, ông chánh ông lý nhà ông, đến gần thất tuần mà vẫn cưới được vợ ba, vợ tư mười tám đôi mươi, mơn mởn non tơ kia mà! Thế có khi cũng hay!
Ông lão đang hân hoan với những ý nghĩ táo bạo của mình, thì hai chàng thanh niên Tĩnh và Thuận từ trong cửa hàng đi ra. Họ đã ăn uống xong, ông nghe thấy anh Thuận bảo có cô mậu dịch nào đó tặng cả tem gạo nữa mà. Họ sung sướng hơn ông nhiều! Tuổi trẻ là thế đấy. Thuận đi ra trước, với vẻ mặt hớn hở, thoải mái. Đi sau là Tĩnh, anh chàng có khuôn mặt chữ điền, đáng lẽ thanh thoát thì lại u uất. Đi một quãng, nghĩ thế nào Tĩnh ngoái cổ nhìn vào cửa hàng, rồi anh ta quay lại đến sát bức tường quét vôi, loằng ngoằng những chữ viết, bằng đủ thứ màu, than đen và gạch nâu. Tĩnh cúi xuống tìm cái gì đó, có lẽ là một hòn gạch, ông lão đoán thế.
Quả nhiên anh ta cầm trên tay viên gạch nhỏ, đứng bần thần chọn một chỗ còn trống trên bức tường. Rồi anh ta viết, ông lão nhìn từng chữ hiện dần ra dưới tay Tĩnh:
Nga- Hận! Đã mấy năm rồi anh đi tìm em khắp mọi nơi, mà không thấy. Em ở đâu? Tĩnh.
Tĩnh bần thần nhìn lại một lần nữa những chữ mình vừa viết rồi thẳng tay ném viên gạch non vào chân tường, rồi anh vừa đi giật lùi, vừa nhìn bức tường một lần nữa, trước khi chạy đuổi theo bạn.
- Ra thế! Anh chàng này cũng là kẻ đi tìm Nga của ông! Ông lão nghĩ vậy và đột nhiên, dòng máu nóng từ đâu không biết dồn chảy ngược lên thái dương ông. Ông ghen! Thì ra chính cái kẻ này đã quyến rũ, rủ rê vợ con ông rời bỏ làng quán ra đi lưu lạc đến đây đây! Được! Thế thì được, ông sẽ có cách của ông! Ông chẳng cần mẹ, chỉ cần thằng con. Nó là máu mủ của ông, không thể để nó rơi vào tay kẻ khác!
Cơn giận làm ông không còn thấy rét, ông đứng dậy, cảm thấy khoẻ mạnh hơn người, định phăm phăm đi vào dãy nhà kho đằng sau cửa hàng, nơi có mấy bóng đèn tù mù. Ông sẽ… ông sẽ… Ờ, mà ông sẽ làm gì nào? Cơn giận bất ngờ hạ xuống, khiến ông sững lại. Không, ông không thể làm gì được, không thể làm to chuyện ra ở đây, bẽ mặt quá.
Ông lão lặng lẽ quay lại, trở về cái lều chợ ông vẫn tá túc để tiếp tục suy nghĩ về nước cờ thứ ba của mình. Nhưng hình như đôi chân ông rã rời mất rồi, ông không đủ sức về chợ nữa. Nhìn sang bên kia đường, thấy hàng hiên một ngôi nhà, hình như là cái kho. Ông lão đến đó, lấy cái tay nải làm chổi, phủi sạch một khúc hè, ngồi tựa lưng vào tường, nhắm mắt lại.
Mưa đã tạnh hẳn, gió khan bắt đầu thổi mạnh, réo ù ù trên dây thép và trong mái hiên. Đêm ấy ông lão Tuân thức trắng.
***
Sau những ngày âm thầm theo dõi, ông lão vẫn chưa tìm ra cơ hội tiếp cận thằng Hận. Ông cũng biết rằng, chị Nga làm việc ngay tại bãi than đằng sau cửa hàng, nên ông không dễ gì vào “nhà” chị được. Thế rồi, thời cơ cũng đã đến, khi chị Nga đi đâu đó. Nhìn cách ăn vận của chị, ông lão biết chị đi khá xa và còn lâu mới về. Với tư cách của một ông lão ăn mày, ông vào quanh mấy ngôi nhà gần đó và, bất ngờ ông ngoặt một cái, rẽ vào cái chái quây lá cọ, nơi trú ngụ của hai mẹ con chị Nga. Trời không mưa, nhưng mây ảm đạm, xầm xì, tạo ra cái không khí âm u, ai nấy ở trong nhà, chỉ biết mình. Thuận lợi cho ông thật! Ông lão ngó trước sau, không thấy ai để ý, ông vạch cửa bước vào. Ông lão sững sờ trước thằng Hận. Quả nó là một đứa trẻ đẹp và ngoan, ngoài sức tưởng tượng của ông. Hình như trong đời ông chưa bao giờ nhìn thấy một đứa trẻ nào đẹp như thế
- Hận ơi! Hận!…
Thằng Hận đang chơi một cái trò gì đó trong góc giường, nghe tiếng người gọi tên mình, nó ngẩng lên và… cười! Nó cười không thành tiếng, nụ cười thơ ngây của một đứa trẻ được chăm sóc đầy đủ. Nhìn ông lão, tức cha nó, dù chưa gặp bao giờ, hoàn toàn là người xa lạ, nhưng nó không thấy sợ.
- Lại đây! Lại đây với… ông! Ông lão đã suy nghĩ về cách xưng như thế, vì dù sao ông cũng là một ông lão. Lại đây ông cho kẹo.
Thằng Hận ngửa cổ lên cười, rồi lật đật chạy lại, sà vào lòng ông lão:
- Kẹo à? Đâu, kẹo đâu?
Ông lão ngồi thụp xuống đón thằng Hận vào lòng, rồi lấy gói kẹo, bóc một cái đưa cho nó. Thằng bé nhìn cái kẹo một cách trịnh trọng rôi há miệng nhận chiếc kẹo. Nó không cười nữa, mà nhai nghiến ngấu. Đó là một cái kẹo Hải Châu, một loại kẹo cao cấp, chỉ để phân phối cho cán bộ cao cấp, dân thường hoặc cán bộ cấp làng nhàng hồi đó không thể có được. Nhưng ở bất kỳ hàng nước nào cũng có bán. Nó rất đắt, một gói kẹo giá trị bằng bốn, năm cân gạo. Ông lão đã mua gói kẹo dành cho thằng con trai lưu lạc, bằng tất cả ý chí nhằm đạt được mục đích và cả tình thương của ông đối với thằng con.
Trong lúc thằng Hận ăn kẹo và ngồi yên trong lòng, ông lão đưa mắt quan sát căn phòng. Trên vách lá cọ treo vài cái áo, cái nào cũng rách. Một cái túi xách may bằng vải mưa mà từ hồi còn đi dạy học, hồi chưa lấy anh Kỳ, chị Nga vẫn xách, và bây giờ nó vẫn còn giá trị, đang được treo vào chỗ trang trọng nhất trong căn phòng tạm bợ. Ở một góc, một cái hòm gỗ thông đựng vốn để đựng xà phòng của Liên Xô, được kê trên mấy hòn gạch vỡ, và trên trốc hòm là mấy cái bát. Tuy nhiên căn phòng rất sạch, mặc dù nền đất, thỉnh thoảng nhô lên vài đống mùn giun. Xung quanh được thưng kín bằng những tàu lá cọ, đủ cỡ, đủ loại, toả ra một mùi ấm cúng.
Thằng Hận đã ăn xong cái kẹo thứ nhất, nó nắm lấy cổ áo ông lão lay mạnh, và há miệng ra cười một cách thành thật. Ông lão cười:
- Cha bố cậu! Đây!
Ông đưa cho nó cái kẹo, nhưng nó vẫn ngần ngừ, không chịu cầm. Chỉ đến lúc ông bóc, bỏ vào miệng nó, nó mới chịu nhai và lại vừa nhai vừa… cười!
Ông lão cũng cười, vén giòng nước giãi của thằng bé trào ra khoé miệng. Có lẽ đây là giây phút hạnh phúc nhất của đời ông. Ước gì ông được ôm thằng con bé bỏng thế này mãi mãi. Ông dụi mái đầu bạc và đầy bụi bặm vào ngực nó, thọc ngón tay vào sườn nó, thằng Hận ngoẹo người và cười, nhưng nụ cười rất rộng của nó vẫn không thành tiếng.
Đột nhiên ông lão giật thót người, tim đập thình thịch ở hai bên thái dương. Chị Nga về? Ông lão cưng người lên chuẩn bị đối phó. Ông khẽ khàng hé cánh của lá ra nhìn, nhưng bên ngoài hoàn toàn im lặng. Chị Nga đi đâu? Ông lão bỗng trào lên nỗi ngờ vực. Cô ấy đi đâu mà để thằng con ta ở nhà một mình? Ở đây cco ấy đã kịp quen biết được những ai? Hay là…? Hàng chữ mà anh chàng Tĩnh viết ngoài bức tường quét vôi của cửa hàng lại hiện ra trong óc ông. Hay là cô ấy đi với con người trẻ tuổi ấy? Được rồi! Thế thì còn đợi gì nữa, ta đã có cách của ta.
Ông lão đặt thằng Hận ngồi lên giường rồi nhìn quanh. Ông vơ lấy bộ quần áo của thằng Hận phơi trên sợi dây thép căng chéo góc nhà. Hãy còn hơi âm ẩm, nhưng không sao. Ông vo lại, nhét vào cái tay nải bợt bạt, nhớp nháp của ông. Rồi ông lấy ra cái áo mưa, choàng lên mình, khoác tay nải rồi ôm thằng Hận, nói:
- Đi! Đi với ông nào!
Thằng Hận hình như có trằn xuống, khiến ông lão hơi loạng choạng. Cái thằng, lên sáu rồi đấy, lại được chăm, trách gì chả nặng. Nhưng khi ông lão Tuân ôm chặt nó, ủ vào bên trong áo mưa, thì nó nín lặng. Ông tưởng nó sợ, nhưng khi ông vạch áo mưa ra, thì thấy nó đang cười, cái vẻ ngây thơ, không ra sợ sệt, cũng chẳng là thích thú, nên ông lão yên tâm.
Ông lão lách ra cửa, nhìn trước mặt và hai bên, đến lúc biết chắc không có ai nhìn, ông bước những bước nhẹ nhàng ra hàng rào nứa, rồi lách qua chỗ giậu đổ, ra ngoài đường phố.
Không hiểu lấy đâu ra sức lực mà một ông lão ăn mày bế nổi thằng Hận, vốn được mọi người gọi bằng cái tên “cối đá” chạy nhong nhong trên một quãng đường như thế.
Xù xì như một con lạc đà già, dạn dày kinh nghiệm, ông lão phăm phăm đi về phía nhà ga xe lửa.
***
Non trưa, chị Nga về đến cửa hàng. Thỉnh thoảng chị vẫn chạy đi đây dó, mua cái gì đó, hoặc chỉ vì có ai nhờ một việc mà, chính họ thấy ngại. Cái đức lam làm của chị Nga được mọi người mến. Nhưng chị biết rất rõ, dù mến, dù quý nhưng hầu như ai cũng có cái vẻ coi thường chị. Chỉ có ông Thức cửa hàng trưởng là tỏ ra tôn trọng chị. Nhất là trong một dịp kê khai nhân khẩu để trình với công an, nhìn nét chữ của mụ nắm than, ông kinh ngạc:
- Chữ của cô đấy à?
- Dạ, vâng! Em viết đấy có chỗ nào không được phải không bác?
Ông Thức xua tay:
- Không! Cô học dến lớp mấy rồi mà chữ nghĩa sáng sủa thế? Lại đẹp nữa1 Đã bảo mà, con người này quả là có chỗ oan khiên, bất hạnh đây…
Chị Nga chỉ im lặng, thỉnh thoảng lại nhìn ông cửa hàng trưởng vẻ lo ngại. Lát sau, ông Thức mím môi:
- Tiếc là lý lịch cô không rõ ràng, nếu không tôi cho cô làm kế toán rồi!
- Thôi bác ạ! Bác thương mẹ com em như thế cũng là quá tốt rồi. Em không dám mơ gì hơn.
- Không phải mơ! Mà là người biết làm việc. Khỉ thật, tôi cũng không biết mình làm gì nữa. Cô thông cảm nhé, tôi coi cô như đứa em. Này, thế còn, chuyện cô cho tôi thằng con cô làm con nuôi tôi thế nào rồi?
Chị Nga cười như mếu:
- Bác cứ nói vui thế chứ, em làm sao bỏ cháu được!
- Không phải bỏ! Ông Thức to tiếng. Nó vẫn là con cô, mà nó lại là con chúng tôi. Có ai bỏ nó đâu!
Chị Nga thấy mình cần đi xa thêm một chút, tuy có mạo hiểm:
- Em biết bác thương cháu, mà là mẹ cháu em cũng muốn cháu có chỗ nương dựa. Nhưng mà, em nói có gì không phải bác bỏ quá cho. Nói thật, nếu bác không phải là lãnh đạo ở cửa hàng, chắc tình cảm giữa hai mẹ con em và gia đình bác cũng có thể gắn bó, ấm áp hơn. Đằng đây, bác là người lãnh đạo, có quyền, có thế, khiên em phải giữ gìn. Nhỡ ra, có chuyện gì thì mẹ con em khổ đã đành, lại còn làm lây sang bác!
Ông Thức ngồi thừ, như người bị điểm đúng huyệt, đúng chỗ yếu, thì ngồi thừ ra. Lát sau ông nói nhỏ:
- Cô nói cũng có chỗ phải, nhưng tôi thương thằng bé, thương cô. Vì thế mà tôi không muốn căn vặn cô. Nhận cô vào làm mấy năm nay, mà tôi không hỏi vặn cô như kiểu người ta thường nghi vấn người xa lạ. Co cũng biết rồi đấy! Ấy thế mà tôi biết có kẻ xấu mồm đã xì xào rằng tôi muốn nhân cơ hội lợi dụng cô. Nhưng tôi đâu có phải là thằng xấu, không bao giờ làm kẻ lợi dụng nỗi khốn khó của người khác, nên tôi không sợ. Thôi thế hôm nào, mời hai mẹ con cô đến nhà tôi chơi, vợ tôi cũng nhắn mấy lần. Bà ấy muốn bế thằng cháu nhà cô lắm đấy!
Chị Nga vâng dạ thế thôi nhưng cũng chưa bao giờ dám đến nhà ông Thức. Còn bà vợ ông, một phụ nữ răng đen (có lẽ đấy là người cuối cùng của thế hệ nhuộm răng), nhìn thuần phác, cũ kỹnhưng tướng người cũng không phải dễ dãi. Chị Nga đã tự nghĩ như thế, nên thấy sợ.
Thấy trong cửa hàng đang đông khách ăn nên chị không dám vào thẳng cửa giữa, chị tạt sang cửa bên, không phải cửa ngách, cũng rộng rãi, đàng hoàng, nhưng không có vẻ trang trọng nhờ cái hàng hiên mở rộng, như một cái đại sảnh công đường. Mọi ngày, kể cả lúc vắng người, chị Nga có thói quen khi đi thường nhìn xuống đất, nhìn xuống mỗi bược chân mình. Mãi rồi thành quen, thói quen của thân phận những kẻ hèn mọn, lấy thủ làm chính, bởi mỗi bước nhân của chị, biết đâu chẳng dẽ sa vào chỗ hiểm. Nhưng hôm nay, trong lòng có cái gì bất ổn. Chị có cảm giác một cái gì đo nguy hiểm đang rình rập và đổ ập xuống đầu thằng con chị. Thường mỗi lần để con để đi một việc gì đó, chị hay để nó chỗ bà Thắm, nhờ trông hộ. Mà bà ấy cũng thích thằng Hận, nó ngoan, chỉ cười cả ngày, mà không hề quấy. Nhưng hôm nay, chị đi vội, chỉ dặn nó ở nhà chơi, không được chạy ra đường. Nên chị thấy sốt ruột. Bâtd ngờ, chị nhìn lên bức tường vôi, có dòng chưa viết bằng gạch non, có đóng khung. Thấy có chữ “Nga”, tên chị, nên chị dừng lại, đọc kỹ. Và… hai chân chị như muốn khuỵ xuống! Thì ra, con người ấy, anh ấy vẫn nhớ tới chị và đã đi tìm chị, như lời nói lúc chia tay.
Trời Già thật trớ trêu! Chị đã thất vọng hoàn toàn, không còn hy vọng gì gặp lại Tĩnh! Những ngày đầu chị luôn nhớ tới anh, luôn hy vọng gặp lại anh. Chị đã yêu anh, và dần dần chị nhận ra, chị chỉ yêu anh ấy bằng một tình yêu đơn phương, vô vọng! Chị chỉ còn coi anh như một người mà mình đã mang ơn. Một người gặp gỡ giữa đường, nếu có mong đợi, thì đấy chính là sự mong đợi để gặp được anh, mong đền ơn, đáp nghĩa. Nhưng rồi chị lại nghĩ: bây giờ mà gặp lại anh ấy, thì biết lấy gì đền đáp, khi chị vẫn chỉ có hai bàn tay trắng! Thôi thì thà để người ta quên mình, còn hơn là gặp nhau lại thấy thẹn lòng.
Bất ngờ, nhìn được giòng chữ của anh, như một lời than tuyệt vọng. Sao chị lại không nhìn thấy anh nhỉ? Chị tự hiểu, rằng chị có bước ra ngoài mấy khi, để anh tìm, anh thấy! Cuộc sống của chị là đống than mỡ trộn bùn, đảo xới lên rồi nắm lại thành những nắm nhỏ, để hong khô, cho vào lò. Trước mắt chị, chỉ toàn có một màu đen, của than! Anh không tìm được chị là phải. Chị ứa nước mắt, nhìn lại dòng chữ và đoán ra là nó mới được viết, chắc mấy hôm gần đây thôi. Chị vội vàng đưa mắt nhìn quanh, tìm kiếm, hy vọng bắt gặp đôi mắt nào đó đang nhìn mình. Chị hầu như đã quên khuôn mặt anh, nhưng đôi mắt và giọng nói thì chị vẫn nhớ. Chỉ cấn một đôi mắt nhìn chị, hay một giọng nói gọi tên chị, là chị sẽ nhận ra anh, và… nhào tới!
Nhưng không có ai nhìn chị cả, không có ai gọi chị! Khách ăn uống vần vào ra cửa hàng thản nhiên, họ có niềm vui, nỗi lo âu, sự vội vã của riêng họ. Chị đứng lặng dưới ánh nắng hanh vàng, se se lạnh. Chị Nga dần bình tĩnh lại, và ngay lập tức lại nghĩ đến hoàn cảnh và số phận của mình. Chị dặn với lòng mình rằng, thế nào, hai người cũng có ngày gặp nhau… Còn bây giơ, thôi nhé, anh ơi, em phải quay vào với đống than đên và thằng con. Chị bước đi vài bước nhưng nghĩ sao lại quay lại cúi lom khom, tìm một viên gạch non. Tìm mãi không thấy, và bất ngờ, chị nhặt được một hòn than. Chị cầm lênm ươm ướm thử và viết bên dưới, hàng chữ của chị chân phương, yếu đuối: “Em ở đây”. Chỉ thế thôi, nhìn hàng chữ màu đen của mình bên dười hàng chữ ngang tàng màu gạch nâu của Tĩnh, chị cắn chặt môi, từ từ buông tay, thả hòn than xuống… Chị đi như chạy về căn nhà tuy tạm bợ, nhưng nó là nơi chị thấy yên lòng nhất… Nhưng…
Chị Nga đứng sững lại, và như người hụt hẫng khi thấy cánh cửa lá gồi bật tung ra. Chị vừa lao tới vừa gọi:
- Hận ơi! Hận…!
Như mọi ngày, dù đang mải chơi, thằng Hận dạ một tiếng thật to, có khi nó “dạ, dạ…” liên hồi, rồi xuất hiện ở cửa với cái miệng há ra cười, phô một hàm răng trắng nhỏ đều và cặp môi đỏ như son. Không nghe tiếng con thưa, chị Nga lao vào giữa nhà, tìm khắc các xó xỉnh. Dù căn phòng rất nhỏ, nhưng chị vẫn xới tung lên. Không thấy con, chị nhào ra cửa cất tiếng gọi tên thằng Hận rất to, không có triếng trả lời của con, mà những người trên cửa hàng thấy đó là một chuyện lạ, nên họ đều đỏ dồn cả ra sau nhà. Người đầu tiên lên tiếng vẫn là bà Thắm, cửa hàng phó:
- Có chuyện gì thế cô Nga? Gọi con gì mà ầm lên thế?
Chị Nga rơm rớm nước mắt, chạy trên hai bàn chân trần đến trước bà cửa hàng trưởng lúc ấy đang đứng trên bậc tam cấp:
- Chị ơi! Chị có thấy thằng cháu nhà em ở chỗ chị không?
- Không! Bà Thắm tỉnh như không, lại còn vặn lại. Sao mọi ngày cô đi đâu hay để nó ở chỗ tôi, hôm nay đem đi đâu?
- Khổ quá, nào em có đem nó đi đâu? Chị Nga bắt đầu vật vã. Em chạy lên cửa hàng chất đốt, theo lời bác Thức nhờ, để hỏi lượng than về tháng sau. Tiện thể em mua cho cháu cái quần Đông – Xuân (chị Nga chìa cái gói bằng giấy xi- măng ra trước mặt). Lúc em đi thấy cháu đang mải chơi, nên cũng chẳng nỡ đem nó ra khỏi nhà. Thế mà lúc về, không thấy nó đâu nữa…
Bà cửa hàng phó bước xuống mấy bước, ngang với chị Nga:
- Cô đã tìm hết chưa? Trong nhà? Xuống chỗ nắm than? Hay vao trong bếp? Đoạn bà quay sang hỏi mấy người nhân viên cũng đang tò mò. Có ai thấy thằng con cô Nga đâu không?
Bọn họ nhìn nhau, rồi lắc đầu.
Chị Nga như người mất hồn, chạy sang bãi nắm than, xuống bếp, ra cả cái bờ ao nhỏ bên kia nhà bếp, vạch búi cây, gốc chuối… Không thấy con, chị thất thểu quay lại. Mấy người ở cửa hàng vẫn đứng đấy, chờ chị về, nhao nhao hỏi. Bỗng một người lên tiếng:
- Hình như lúc nãy em thấy có người trong nhà chị Nga. Lúc em đi qua nhìn vào thấy cánh cửa he hé!
- Thật không chị? Chị Nga vội vàng quay về nhà, theo sau là bà Thắm. Chị Nga lại vừa xoá xào căn phòng vừa gọi tên con. Bông bà Thắm nhặt một mẩu giấy gói kẹo lên hỏi:
- Thế cái này là cái gì?
Chị Nga cầm lấy mẩu giấy tần ngần:
- Không phải của nhà em. Nhà em không có loại kẹo này cho cháu. À có, cách đây lâu lắm rồi, bác Thức có cho cháu ba cái kẹo, cũng nhãn hiệu Hải Châu thế này, nhưng cháu ăn hết ngay rồi.