Mẫu Thượng Ngàn - Phần 10 - Chương 01
Phần X - Chương 1: X: ĐỐI THOẠI
Chuyện đó cũng làm Tuấn nghĩ ngợi đôi chút, tuy nhiên sự chán nản của Tuấn chủ yếu do anh cảm thấy gò bó ngột ngạt quá. Không cứ ở nhà trường mà ở nhà cũng vậy. Ông phủ Đinh Công Lễ là một nhà nho nghiêm khắc. Đối với đám thanh niên mới, ông luôn tỏ ra không hài lòng. Đối với con mình, Đinh Công Tuấn, ông cho là một kẻ lông bông. Ông không thể nào nghĩ nổi một người thanh niên có học lại lấy nghề vẽ làm sự nghiệp. Cầm, kỳ, thi, họa bốn thứ đó đều đáng trọng cả nhưng các cụ ta xưa chỉ coi đó là thứ nghệ của một bậc tài hoa. Biết để chơi. Biết để tiêu dao ở cõi đời này. Chứ đâu phải biết để đắm chìm cả cuộc đời mình vào chuyện ấy. Do vậy, khi nghe tin Tuấn, lúc hết năm thứ hai, xin nghỉ học bỏ trường Mỹ thuật, ông chỉ lắc đầu nhưng không lấy đó làm quan trọng. Chuyện đó chỉ làm ông buồn phiền thôi. Chuyện ông Đỗ Tiết bị tù, nay bị quản chế ở quê nhà là việc ông rất lo nghĩ. Rồi chuyện hai đứa cháu Chất và Phác, đứa bị chết, đứa lưu lạc phương trời xa cũng là việc rất buồn. Nay thêm thằng con lông bông, hỏi ông không lo lắng sao được.Tuấn đang hờ hững bước, đầu óc nghĩ liên miên, chẳng để ý đến người xung quanh bỗng nghe có tiếng gọi:
Tuấn và Huy là đôi bạn. Ở quê hai gia đình họ Đinh và họ Vũ vốn chẳng thân thiện với nhau, nhưng đôi bạn thì ngược lại với gia đình, hồi nhỏ hai người đã ở Hà Nội, đi học cùng trường thân thiết với nhau chẳng khác gì một đôi tình nhân. Khi lớn lên, chí hướng họ khác nhau, Tuấn học Mỹ thuật; còn Huy, gia đình định cho học tú tài xong sẽ bắt theo trường Luật. Ý gia đình ông ký Nhàn định hướng con theo con đường làm quan. Ông Vũ Xuân Nhàn, tuy ở Hà Nội, vẫn mang nặng máu họ Vũ trong lòng. Chẳng là, họ Vũ Xuân đã nhiều đời nay không có người đỗ đạt to ra làm quan. Danh giá nhất là cụ tú Cao, anh ông Nhàn, cũng chỉ có chân tú tài. Còn họ Đinh Công, chưa kể các cụ tổ ngày xưa đã có người đỗ tiến sĩ, mà nói thời nay, cũng có ông cụ Lễ, bố Tuấn, đỗ cử nhân làm ông Huyện. Do vậy, ông ký Nhàn thấy hai đứa trẻ thân nhau mặc dù chẳng ưa gì họ Đinh, vẫn lờ đi cho hai trẻ thân nhau. Ông nghĩ rằng hai đứa là đại biểu cho hai họ, cứ để cho chúng ganh đua nhau. Để rồi xem mèo nào thắng mỉu nào. Đến khi Tuấn theo học trường Mỹ thuật, còn Huy đậu tú tài phần thứ nhất, ông reo lên trong lòng đắc thắng: "Như vậy thằng Tuấn đi làm thợ vẽ. Thợ vẽ sánh sao nổi con ông, thằng Huy sẽ là sinh viên trường Luật. Sau khi đỗ cử nhân Luật, con đường ra làm quan của nó sẽ mở toang".Trong khi ông ký Nhàn mơ mộng xây dựng tương lai cho con mình, mơ ước sự phồn vinh của dòng họ Vũ Xuân, thì Huy lại đi theo một con đường khác mà chẳng ai hay. Năm 1925 tháng 11, người Pháp đem cụ Phan Bội Châu ra xử ở Hội đồng đề hình Hà Nội, cụ bị kết án tử hình. Hà Nội dấy lên sục sôi phong trào đòi nhà cầm quyền Pháp phải bãi bỏ bản án đó. Huy được thức tỉnh trong phong trào phản đối đế quốc đó.Năm 1926, nhà yêu nước Phan Chu Trinh qua đời ở Sài Gòn. Cả nước lại dấy lên phong trào để tang cụ Phan. Trong trường Bưởi, học sinh đòi hiệu trưởng cho phép tổ chức lễ tang, chính quyền Pháp không nghe. Lập tức nổ ra những cuộc diễn thuyết. Huy lại là người hăng hái trong công việc này. Anh đứng giữa đám đông say sưa nói với đám học trò bằng cái giọng đầm ấm mà sôi động, dưới một tấm biểu ngữ bất ngờ được chăng lên:
Nghĩa của câu đó là: "Ngày truy điệu cụ Phan Tây Hồ, làm thay đổi thức tỉnh lòng yêu nước của quốc dân". Sau buổi đó, bọn mật vụ ráo riết săn đuổi những học sinh nặng lòng yêu nước. Một số học sinh bị đuổi khỏi trường học, trong đó có Vũ Xuân Huy. Huy liền bỏ nhà đến ở cùng Tuấn. Ông ký Nhàn nghe được tin, lồng lộn như người hóa điên. Thế là thằng con rồ dại đã phá tan tành mộng đẹp của ông. Ông không thể ngờ Huy lại là kẻ phá gia chi tử. Ông sai người tìm đến nơi ở của Tuấn, Huy, nhưng hai người đã dọn đến ở một xóm nghèo ngoại ô. Cái xóm Cửa Cống đêm ngày bốc mùi hôi thối đã giúp Huy những ngày khó khăn. Tuấn, người bạn từ thời ấu thơ đã nhường cơm sẻ áo nuôi anh. Phải mất ba tháng, Huy mới được anh Dương, một người hoạt động cách mạng tìm cho việc làm. Huy đi dạy tiếng Pháp cho con một ông chủ hiệu Hoa kiều, công mỗi ngày hai hào. Anh Dương tổ chức một lớp học ở xóm Cửa Cống. Học trò là những công nhân lam lũ ở Nhà máy Rượu, Nhà Đèn, Nhà máy Diêm. Trình độ học viên đủ loại. Có loại chưa biết chữ, có loại đang tập ghép vần, có loại mới biết cộng trừ chưa biết nhân chia. Lẽ dĩ nhiên, Huy dạy không lấy tiền. Anh Dương tổ chức lớp học này cốt để thử thách Huy, để dạy anh cách tiếp xúc với người lao động. Tuấn thấy công việc cũng vui nên thỉnh thoảng lại dạy thay Huy. Anh ra bài làm cho học sinh. Và khi họ mải miết làm toán hay tập viết, Tuấn lại tranh thủ lấy bút ra ký họa những con người cùng xóm với anh.Đến năm 1927, một hôm Huy hỏi:
Lẽ dĩ nhiên, nói đến đi Tuấn thích ngay. Anh vốn mê lãng du. Anh thích nhìn núi cao, sông dài. Anh ưa sống với thiên nhiên, cây cỏ. Vừa qua, anh bán được bức tranh lụa; có tiền trong túi rồi, anh muốn thay đổi không khí, đi ký họa tài liệu. Huy rất lạ, bắt Tuấn trong chuyến đi này phải cải trang. Anh bảo:
Đến một ga xép khác mà Tuấn cũng quên mất tên, lúc đó đã rất khuya, họ đợi cho hành khách xuống hết rồi chờ cho tầu sắp chuyển bánh mới lẻn xuống. Ra khỏi ga, trời tối mù mịt, Huy dẫn Tuấn theo một con đường mòn đi tới một quả núi như một lão khổng lồ ngồi lù lù trong đêm. Huy nhìn thấy một cây to nằm bơ vơ bên đường, anh bảo: "Đây rồi, đã gần tới điểm hẹn". Điểm hẹn là một ngôi nhà lá nằm dưới chân núi. Anh bảo Tuấn đứng yên, chờ anh quan sát kỹ. Thấy ngọn đèn trong ngôi nhà che giấy màu đỏ, Huy bảo đó là tín hiệu không an toàn. Hai người bấm nhau cứ đi theo con đường mòn dẫn vào nơi non xanh nước biếc. Quay lưng lại, nhìn lên con đường nhựa còn trông thấy những tên lính Pháp cưỡi xe đạp đi tuần đêm. Chúng quét đèn pin loang loáng. Huy dẫn Tuấn lẻn xuống suối, xuống khe, lẩn vào những bụi rậm. Đi một quãng xa nhìn lại vẫn thấy ngọn đèn che màu đỏ. Đêm hôm ấy động và gà rừng đã eo óc gáy. Huy bảo Tuấn phải chờ đến đêm hôm sau. Trời rét căm căm lặn lội suốt đêm, lại mất ngủ, mệt đến bơ phờ, Tuấn thấy đôi chân tê dại; đến sáng anh lên cơn sốt. May mắn gặp cái lều canh nương và một ông già Thổ. Đêm hôm sau, Tuấn vẫn sốt; Huy đi khỏi lều hàng tiếng, lúc quay trở lại báo rằng đã có tín hiệu đèn xanh. Huy phân vân. Bỏ chuyến đi này anh tiếc vô cùng, song để Tuấn quay về một mình anh lại thấy không đành lòng. Tuấn hiền từ nói: - Cái số mình nó thế. Trời không cho mình cùng đi làm cách mạng với cậu. - Đến đây Tuấn cười. - Lúc cậu đi thăm dò tình hình, ở nhà một mình, tớ nghĩ miên man và thấy rằng cái tạng mình là tạng lông bông. Mình không có cái chí mạnh mẽ như cậu. Tạng của cậu mới là tạng của nhà cách mạng. - Thôi, chúc mã đáo thành công.Đôi bạn chia tay nhau đêm ấy. Hôm sau, Tuấn dứt cơn sốt. Anh theo ông già Thổ về bản. Thấy cảnh núi rừng đẹp quá, Tuấn liền nán lại thêm mấy ngày để vẽ. Viên Tây đồn đi tuần thấy anh vẽ, liền đưa anh về đồn gần đấy xét hỏi. Thấy mặt người Tây râu xồm nhiều nét đặc biệt, Tuấn ngồi trong đồn ký họa luôn một bức chân dung. Lão Tây đồn râu xồm xem bức họa khoái chí, kêu lên "Très bien" (rất tốt). Rồi hắn mang rượu ra mời Tuấn. Tuấn uống rượu tây lu bù và quyết định ở lại thêm một ngày nữa để vẽ phong cảnh núi rừng. Đúng một tuần sau, nhà cách mạng hụt mới quay trở về gia đình ở Từ Sơn.Ông phủ Lễ lúc ấy đã về trí sĩ. Tuấn vui vẻ kể cho cả nhà nghe chuyện mình cải trang làm người lao động lên Lạng Sơn đi ký họa. Lẽ dĩ nhiên, anh giấu biệt chuyện mình định đi làm cách mạng. Một cô em rất tinh ý hỏi:
Nói với cô em một thôi dài như vậy, Tuấn không ngờ rằng, trong lúc ngẫu hứng biện luận hay có thể nói ngụy luận, anh đã tìm ra được một lý luận cho nghệ thuật của mình. Cô em ngây thơ thì ngạc nhiên, tròn mắt trước những lời lẽ khó hiểu, như điên điên rồ rồ của anh. Còn ông anh thì sáng mắt lên, vui mừng một cách bất ngờ. Có lẽ nào những tháng sống ở xóm nghèo Cửa Cống, rồi chuyến phiêu lưu bất ngờ và kỳ lạ kia đã giúp anh tìm ra được lý lẽ ấy. Hay là sự bức bối, ngán ngẩm trong bao tháng qua chính là lúc anh tự đối thoại với mình để đi đến những lý lẽ ấy. Liệu những suy nghĩ ấy có phần nào là do ảnh hưởng của Huy đối với anh không? Có thể sự rời bỏ trường học cũng là biểu hiện của những suy nghĩ ấy mà anh không nhận ra chăng?Tuấn còn đang khoan khoái với những suy tư của mình, ông phủ Lễ gọi anh lên nhà khách. Ngồi chỉnh tề trên tràng kỷ, ông cử nhân già nói với con trai:
Qua những câu nói ngắt quãng của ông già, Tuấn hiểu cha mình biết khá nhiều điều song ông không tiện nói ra. Có thể ông già đã biết lờ mờ anh đi với ai, và ý định lên Lạng Sơn làm gì. - Hình như ông già bối rối và lo lắng thì phải. Lúc được gọi lên nhà khách, Tuấn đã nảy ra trong óc những ý muốn đối địch với cha mình. Anh cứ tưởng ông Phủ sẽ khuyên anh những điều vô bổ mà anh cho là lạc hậu như học hành chỉn chu để ra làm quan hoặc ít nhất để tạo được địa vị xã hội. Thì ra, còn có chỗ anh chưa hiểu cha mình. Ông già có cái nhìn rộng rãi, bao quát hơn nhiều. Anh thấy thương ông, khi ông không mắng anh, mà lại nói với anh bằng cái giọng tâm sự:
Hôm nay, sau gần nửa năm, Tuấn và Huy mới lại gặp nhau. Những kỷ niệm và những rắc rối trong chuyến phiêu lưu lạ kỳ ấy như vẫn còn tươi rói trong lòng Tuấn. Anh nhắc lại câu hỏi với Huy: