Mẫu Thượng Ngàn - Phần 10 - Chương 02 - Part 01
Chương 2
Sau khi cô Nguyệt lấy chồng, cụ tú Cao bán cửa hàng thuốc bắc ở Hà Nội, trở về quê. Được cái, ông con rể, bác sĩ Alexandre là người Tây nhưng rất trọng lễ nghĩa.Ngày xưa, họ Vũ Xuân làm một ngôi nhà trên mảnh vườn một mẫu cho cụ phó bảng Vũ Huy Tân ngồi dạy học. Cụ Tân khuất bóng. Ngôi nhà học bỏ hoang đổ nát. Ông con rể Alexandre liền làm một ngôi nhà đại khoa năm gian trên cái nền cũ tặng cụ Tú.Ngôi nhà tọa lạc trên một nền cao, giữa khu vườn um tùm. Đó là ngôi nhà chính. Đằng sau nhà chính còn ba gian nhà nhỏ nằm song song, tạo thành hình chữ nhị với ngôi chánh đường. Đó là ngôi nhà thờ. Nhà quay hướng nam ở dưới chân núi nên tương đối bằng phẳng. Trước nhà có giàn cây leo. Dưới giàn cây là vườn cảnh. Theo lối đi giữa vườn cảnh, leo lên bậc thềm bước vào gian chính giữa, nơi để cái sập cổ, cái sập gụ chỉ để trơn không chạm trổ. Cái sập nghe nói rất xưa, ngày nào cũng được bà cụ Tú lau chùi nên không đánh xi vẫn bóng lộn. Hai gian bên cạnh: gian phải kê một cỗ phản lim, gian trái là nơi tiếp khách. ở hai đầu hồi có hai buồng gói. Trước mặt gian buồng gói bên trái có cây mít cổ thụ. Trước buồng bên phải trồng một cây bưởi.Gian khách kê đôi tràng kỷ và bàn nước. Đặc biệt, ngồi trên tràng kỷ, lập tức nhìn thấy ngay một bức tranh chữ treo trên tường hậu. Tranh viết trên lụa bạch bằng mực đen nháy. Bức tranh được gia cố bằng lớp bồi phía sau, trên, dưới có trục tiện bằng gỗ mun đánh bóng trông như sừng. Đó là chữ Đạo viết rất chân phương, nhưng nhìn kỹ thấy nó mềm mại như có nước chảy bên trong. Nghe đồn đây là bút tích của cụ phó bảng Tân. Cụ phó bảng đã ra đi khỏi cõi đời này. Chẳng lưu lại gì hết. Chỉ còn độc một chữ viết trên lụa bạch trao lại cho người học trò nhỏ mà cụ có phần thiên ái. Cứ mỗi lần nhắc đến lịch sử bức tranh chữ cụ tú Cao lại hầu như nghẹn ngào run run nhắc lại những di ngôn của người thầy kính yêu:
Ông cụ Tú gật đầu. Ông biết lý Cỏn có nhiều tật, song điều khả dĩ của hắn là vẫn còn biết tôn trọng người trên. Ông cụ biết vẫn còn chút uy quyền tinh thần với lý Cỏn. Cho nên, cụ cũng cố dùng nó để nhẹ nhàng nhắc nhở, có lúc cần thì đe nẹt người cháu được số phận nuông chiều, quá ư thừa thãi quyền hành và của cải này. Nói thực bụng, trong lòng cụ Tú luôn đeo đẳng một cảm giác sợ hãi. Cụ sợ vì người cháu quá khôn ngoan lanh lợi, hắn đã đạt tới cái đỉnh cao trong làng xã. Mà ở trên cao, hắn lại không thấy run chân, chóng mặt. Cụ Tú thường than phiền với cụ đồ Tiết, người bạn đồng môn của cụ từ lúc còn để chỏm:
Khi Huy và Tuấn đến nhà, cụ tú Cao mừng ra mặt. Cụ vốn tin ở chữ nghĩa. Cụ cho rằng chữ thánh hiền ngày xưa và chữ Tây ngày nay tuy khác nhau, tưởng như rẽ làm hai nẻo, nhưng rốt cùng chúng cũng đồng quy. Cụ chưa hiểu gì về văn hóa Tây phương, song bằng trực giác cụ tin như thế. Qua sự thất bại của các bậc cha chú và của thầy học mình, cụ không còn mang nặng nề sự tự hào vô lý của các bậc tiền nhân. Nhìn sự đời thay đổi lắm điều chướng tai gai mắt, cụ thấy buồn nhưng đã lờ mờ hiểu rằng, đang diễn ra một cuộc thay đổi chưa từng có trên non sông đất nước. Và cũng lờ mờ thấy rằng đây chỉ là bước đầu tiên. Cụ chỉ là người nhỏ tuổi nhất trong lớp người xưa, thế mà năm nay cũng đã ngoại sáu mươi.Nghĩ đến tuổi tác của lớp người như mình, cụ buồn rầu lo lắng. Cũng do vậy, cụ rất chú ý đến lũ con cháu mình. Hình như, gặp Huy lần này, cụ thấy có cảm tình nhiều với đứa cháu. Ở Huy, cụ thấy nó rất khác người xưa, nhưng lại có một điểm rất giống: đó là sự nghiêm trang đến khắc nghiệt. Còn ở Tuấn, cháu ông bạn già, cụ thấy sự khác biệt với lớp người xưa quá nhiều. Sự nghiêm trang đã nhường chỗ cho sự phóng khoáng, phóng khoáng đến độ phóng túng. Có lẽ cậu ta là một họa sĩ... không biết các nhà tài tử ngày xưa có thế không? Chắc là có nhưng hình như ở họ vẫn có chút nghiêm trang. Còn ở Tuấn, cái tính cách mà bây giờ có tên gọi là tự do, cụ thấy nó cũng đáng yêu song lại cảm thấy sợ hãi nó...Hôm đầu tiên, lúc mới bước vào đến sân, Tuấn đã reo to: "Ôi? Đẹp quá!". Đó là lúc anh nhìn thấy hai ông bà già đứng dưới giàn bầu trước cửa nhà. Nắng lọt qua lớp lá mỏng tạo thành một mầu vàng chanh.Những đốm nắng lọt qua những kẽ lá tạo thành những vết vàng trên sân gạch Bát Tràng. Rồi còn ông già nữa. Khuôn mặt, vóc dáng ông như hút hồn anh. Một thân hình gầy guộc nhưng cứng cỏi. Một khuôn mặt xương xương đầy nếp nhăn song rất tinh thần. Một chòm râu trắng như cước tiên phong đạo cốt. Một búi tó củ hành trên đỉnh đầu, thứ mà anh khó gặp nơi thành thị. Và nhất là một đôi mắt vừa sáng vừa hiền. ở đấy ta tìm thấy cả sự ấm áp cả sự thông minh. Anh kêu lên "Thần nhãn! Thần nhãn". Anh chắp tay vái lạy đôi vợ chồng già rồi vội lấy cặp lấy bút ra vẽ.Cử chỉ mới sơ kiến đã quá sốt sắng, nhiệt tình như vậy khiến cụ thấy ngạc nhiên. Nó vừa đáng yêu vừa lạ lẫm với cụ. Khi Tuấn vẽ xong, anh lễ phép cám ơn ông già, nói dăm câu thăm hỏi rồi xin phép về nhà cụ đồ Tiết:
Quả là Huy rất khéo. Mới về, anh đã chiếm được cảm tình của ông bác. Càng ở lâu, cảm tình ấy càng tăng. Huy biết làm công tác quần chúng. Đi hoạt động cách mạng, anh hiểu được vận động để quần chúng theo mình là một nghệ thuật tinh vi. Anh hiểu ông bác là người có uy tín lớn trong họ, trong làng xã. ông cụ lại là ông lang có mối quan hệ rất rộng. Chiếm được cảm tình của cụ coi như việc vận động đã thành công một nửa. Lại cũng biết gây cảm tình với những người như cụ tú Cao không phải là việc lấy lòng, nịnh nọt thông thường mà phải bằng những việc thiết thực.Một hôm, Huy bảo cụ Tú:
Hôm bắt đầu tiến hành công việc, cụ tú Cao sang nhà thờ họ, làm mâm cơm, thắp hương khấn vái lạy tổ, xin phép được mang cuốn gia phả chữ nho đựng trong cái ống sơn son xuống làm tài liệu viết cuốn mới. Lúc ngồi uống rượu hưởng lộc tổ, có đủ mặt lý Cỏn và hai ông trưởng chi khác, cụ Tú nghiêm trang bảo:
Lý Cỏn và hai ông trưởng chi kia nghe xong vâng dạ rối rít. Ông trưởng họ cuối cùng xuýt xoa khấn vái và xin âm dương, xin ngày khởi sự.Ngày khởi sự cũng long trọng chẳng kém. Cụ Tú phải thắp hương đốt trầm lên. Hai bác cháu ngồi ở tràng kỷ. Việc đầu tiên phải dịch hiểu quyển sách cũ. Nghe nói cụ chấp bút cuốn này là một vị tú tài thời vua Minh Mệnh. Cụ tên Vũ Xuân Quang, tự Đắc Thời. Tuy chỉ có chân Tú tài thôi, nhưng cụ viết rất cặn kẽ và cứng cỏi.Đại để, đầu tiên là bài tựa. Viết rằng:Ngày 5 tháng hai năm Đinh Hợi, cháu mười đời họ Vũ Xuân, tên tự là Đắc Thời được thừa hưởng ấm phúc tổ tiên, có chút chữ nghĩa mọn, được đọc những ghi chép của tiên tổ để lại, chỉ thấy có ghi tự hiệu cùng ngày cúng giỗ. Mà công đức tổ tiên, ngành trên chi dưới, các nơi phần mộ, can chi hướng đất đều thiếu không được chép lại.Bèn hỏi han cụ tổ đời thứ tám tên tự là Hưu Tín, miệng hỏi mà lòng ghi nhớ, đại khái cũng thu thập được đôi ba phần... Cho nên, phàm là sự thực truyền đời, những chỗ chưa ghi, thế thứ trên dưới cũng chép lại được đầy đủ, khiến cho con cháu hiếu thảo, sau này khi đọc gia phả, thì cũng hiểu được nguồn gốc và nhớ tới việc lưu truyền công đức tổ tiên...Cụ tú Cao, như một ông thầy, đọc to giọng sang sảng, cứ đọc vài câu lại dừng lại, cắt nghĩa từng chữ rồi nói rộng thêm, có lúc kể cả một giai thoại mà trong họ chỉ truyền cho nhau bằng miệng chứ không ghi chép lại. Vũ Xuân Huy cắm cúi như một cậu học trò nhỏ, ghi chép rất tỉ mỉ. Anh có ý định sẽ viết cuốn gia phả kỹ càng hơn cuốn cũ, có thể giản dị dễ đọc hơn. Nếu có thể nó sẽ như quyển ký sự về một dòng họ.Về nguồn gốc, cụ tú Cao kể lại:Ngày xửa ngày xưa, họ Vũ Xuân lưu lạc đến đất Cổ Đình làm nghề sơn tràng. Chặt củi, đốt than vốn là nghề tổ. Sau được một thầy địa lý tìm cho một ngôi âm trạch đẹp. Mộ cụ tổ được táng trên lưng con Phượng Hoàng ở bên kia sông. Thành thử từ đấy, con trai họ Vũ Xuân không đỗ cao, nhưng con gái họ Vũ Xuân được tiếng là đẹp Thậm chí trong họ, mấy đời sinh được mỹ nhân. Mà nếu không là gái đẹp thì ít nhất đàn bà họ Vũ cũng dễ coi ngoài ra còn rất chăm chỉ đảm đang. Được tiếng như vậy nên con gái họ Vũ rất đắt chồng.Người đàn bà họ Vũ nổi tiếng mỹ nhân là bà Vũ Thị Ngọc Viên. Bà Ngọc Viên được vào hầu hạ chúa Trịnh, được phong Thị Nội cung tần. Có một thời bà được chúa yêu. Người làng Đình bảo họ Vũ Xuân nhờ được váy người đàn bà mà phất lên từ đấy.Người đàn bà họ Vũ thứ hai nổi tiếng mỹ nhân chính là bà Tổ cô đã được nói. Bà Tổ cô sinh vào thời loạn. Người làng Đình bảo, giá vào thời bình chắc bà không làm hoàng hậu, thì cũng phải làm quý phi. Ấy, trai họ Vũ người ta có thể coi thường, chứ gái họ Vũ, thì dù không phải người nội tộc họ Vũ, ai ai ở làng Đình này cũng đều quý trọng. Đặc biệt bà Tổ cô với nhiều huyền thoại bao phủ, càng được nhân dân Cổ Đình sùng kính hơn. Sùng kính vì ông Phủ chồng bà đã chết như vị anh hùng. Sùng kính vì chính bản thân bà đã đem một phần ba của cải, đem cả một hũ bạc hoa xòe của riêng mình ra xây dựng lại đền Mẫu, tạo ra chốn hương khói để nhân dân có chỗ phụng thờ. Bà dần dần biến thành người tiên. Người thánh trong con mắt người đời. Nhất là từ hôm rắn thần "Ngựa ngài" từ dưới hang chui lên, đuổi lão "Mắt Mèo" báng bổ chạy bán sống bán chết, thì danh tiếng của bà đã lan ra khắp cả vùng...Vũ Xuân Huy phải cật lực làm việc cả tối cả ngày suốt hơn tháng ròng để viết gia phả. Buổi tối, anh đến nhà các bậc đàn anh trong họ, hỏi han tìm hiểu. Ban ngày, lúc mọi người đi làm đồng, Huy ngồi viết. Khi tạm xong, lúc đọc để các bậc cao niên cho ý kiến, họ Vũ Xuân lại thắp hương, đốt trầm, lại phải biện ba mâm rượu để các cụ góp ý sau đó hưởng lộc tổ. Bữa ấy, cả họ nức nỏm khen hay, khen cậu tú Tây mà cũng không quên nguồn gốc. Việc Huy viết gia phả họ Vũ Xuân hầu như được cả làng Cổ Đình biết. Cụ tú Cao khoe cháu mình với mấy ông bạn già. Ông cụ đã hoàn toàn tín nhiệm Huy. Ông cụ cũng đã làm cho gương mặt của Huy thêm khả ái trong con mắt người Cổ Đình.Việc thứ hai Huy làm cho làng nước cũng khá được lòng dân. Anh mở lớp dạy học chữ quốc ngữ. Ngày xưa, họ Vũ Xuân đã dành cả khu vườn để cụ phó bảng Vũ Huy Tân mở trường dạy cho các nho sĩ trong vùng. Việc ấy đã nức tiếng cả vùng. Việc ấy có tiếng vang to lớn lắm, bởi vì trường của cụ Vũ Huy Tân là trường đào tạo những ông Tú, ông Cử. Cụ Vũ Huy Tân lại là nhà nho quân tử, yêu nước. Người ta ghen với họ Vũ Xuân nên bảo rằng họ Vũ Xuân thấy sang bắt quàng làm họ. Người ta cho rằng cụ phó bảng chẳng hề có đây mơ rễ má với họ Vũ Xuân. Chẳng qua cụ Vũ Huy Tân thấy cùng họ Vũ, và nhận thấy sự nhận họ này chẳng có gì hại, mà chỉ có lợi cho việc vận động yêu nước, nên cụ mới lặng yên mặc cho người đời hiểu ra sao cũng được. Chứng cứ là từ khi cụ Vũ Huy Tân không còn nữa, có thấy họ Vũ ở dưới Nam lên nhận họ nhận hàng gì đâu. Bình phẩm thế thôi, chứ thực ra việc mở trường của cụ phó bảng ngày xưa ở đây đúng là một việc rất hữu ích. Người trong vùng và các học trò của cụ Vũ Huy Tân đến bây giờ cũng có quên được sự kiện tất đẹp đó đâu.Lớp học của Huy dạy chữ quốc ngữ làm sao sánh được lớp học của cụ phó bảng. Trường ngày xưa là trường đào tạo nên ông Tú, ông Cử; còn trường ngày nay chỉ là trường dạy sơ học. So sánh được họa chăng là so sánh với trường của các ông đồ già, ví dụ như cụ đồ Tiết, chỉ chuyên dạy cho lũ trẻ còn để chỏm đào lúc nào mặt mày cũng nguếch ngoác mũi dãi. Một ông tú tài Tây, sắp sửa đi làm quan, mà vẫn kiên trì dạy học cho dân quê. Điều ấy làm cụ tú Cao thầm khâm phục. Lý Cỏn rất sốt sắng với việc này. Lũ trẻ nhà lý Cỏn, trừ thằng Cò, đều không biết chữ. Huy bảo:
Như vậy, lớp học lúc đầu toàn người trong nhà. Lý Cỏn để riêng hẳn cái nhà ngang làm chỗ mở lớp. Chưa có bàn ghế, phải trải chiếu ra nền nhà, để trẻ con nằm bò xuống đất mà học giống như lớp học của các thầy đồ xưa. Mới đầu chỉ là lớp học gia đình, về sau, dân làng biết tin, nhiều nhà đến xin cho con học.Bù đầu vào công việc, mãi đến hơn một tháng sau, Huy mới đến được nhà cụ đồ Tiết. Anh nói với ông cụ:
Trịnh Huyền đi thăm đồng về. Huy cũng nghe nói về người cháu ngoại cụ đồ Tiết ở dưới Nam lên. Nhìn người đàn ông có bộ mặt nửa hiền lành, nửa kỳ dị, Huy gật dầu chào. Trịnh Huyền cũng lễ phép đáp lễ. Trịnh Huyền ngoại tứ tuần, cũng vào trạc tuổi lý Cỏn. Ngồi nói chuyện một lát, Huy mới biết người đàn ông này rất từng trải, đã từng đặt chân đi khắp một dải từ Hòa Bình, Sơn Tây đến Hà Đông - Nam Định. Huy hỏi: