Chiến hữu - Chương 11.2

Chị lắc đầu. "Hàng ngàn người đang thất nghiệp. Cô ấy có chuyên môn gì không?"
"Cô ấy trông tuyệt vời," tôi nói.
"Bao nhiêu chữ?" Erna hỏi.
"Cái gì?"
"Cô ấy có thể ghi tốc ký bao nhiêu chữ một phút? Bằng mấy thứ tiếng?"
"Em chẳng biết," tôi nói; "nhưng, cô ấy có phong cách đặc biệt, Erna --"
"Em trai thân mến," Erna đáp, "chị biết cả rồi -- con nhà gia thế, khá giả, đầy năng lực, đủ mọi tính tốt. Nhưng vô vọng, em ạ. Họa may có ai quan tâm đặc biệt và vận động cho cô ấy. Em biết, dĩ nhiên. Nhưng em không muốn vậy, phải không?"
"Hỏi gì kỳ quá," tôi nói.
"Không kỳ như em tưởng," Erna trả lời, giọng chị có một chút cay đắng. "Chị biết mấy trường hợp như thế." Tôi nghĩ ngay đến công việc của chị và lão chủ. "Nhưng cho chị khuyên em một điều," chị nói tiếp. "Tìm thêm việc làm để cung ứng cho cả hai. Đấy là giải pháp đơn giản nhất. Cưới nhau."
"Đừng nói giỡn,"tôi nói, cười to. "Về phần mình, em còn không biết chắc nữa là."
Erna nhìn tôi lạ lùng. Thình lình sức sống như vơi cạn, chị già xọp và héo hắt hẳn. "Nói cho em biết," chị nói. "chị sống một cách sung túc, sở hữu nhiều thứ mà chị không cần. Nhưng hãy tin chị -- nếu có ai muốn chung sống với chị một cách lương thiện, đàng hoàng, chị sẽ bỏ tất cả những thứ vô nghĩa này và đến với anh ấy, ở gác xép dưới nóc nhà cũng cam." Nét mặt chị bình thường trở lại. "Nhưng thôi, bỏ qua chuyện ấy -- mỗi người đều có một góc tình cảm riêng tư." Chị nháy mắt với tôi sau màng khói. "Hình như, em cũng thế?"
"Ach, ơ --" tôi nói.
"Coi chừng," Erna cảnh cáo. "Khi ta không ngờ, chính là lúc ta dễ dính mắc nhất --"
"Làm gì có," tôi trả lời.
Tôi giam mình trong phòng đến tám giờ tối -- rồi tôi chán và ra khỏi nhà, đi đến quán "The Bar" để có người chuyện vãn.
Valentin đã có mặt. "Ngồi xuống," anh nói, "cậu uống gì?"
"Rum," tôi trả lời. "Tớ đã mơ tưởng tới nó từ chiều."
"Rum là sữa của người lính," Valentin nói. "Nhưng mà này, trông cậu khá lắm, Bob."
"Vâng?"
"Vâng, trẻ ra."
"Thôi mà," tôi nói. "Pros't, Valentin."
"Pros't, Bob."
Chúng tôi đặt ly xuống bàn, nhìn nhau. Rồi cùng phá ra cười.
"Bé con," Valentin nói.
"Con sâu rượu mắc dịch," tôi nói. "Bây giờ chúng ta uống gì đây?"
"Như khi nãy."
"Phải rồi."
Fred rót đầy ly.
"Nào, pros't, Valentin."
"Pros't, Bob."
"Pros't, câu chúc tuyệt vời, hả?"
"Chữ hay nhất trong tất cả chữ."
Chúng tôi lập lại nhiều lần. Rồi Valentin đi.
Tôi vẫn ngồi đấy. Ngoài Fred ra, không còn ai. Tôi nhìn các manh bản đồ cũ, lồng sáng, nhìn những con tàu với cánh buồm vàng, và nhớ Pat. Tôi muốn gọi nàng, nhưng tôi cố kiềm chế. Tôi không muốn nghĩ về nàng quá nhiều như thế. Tôi muốn xem nàng như một món quà không mong đợi, đầy niềm vui, đến rồi đi --không có gì khác. Tôi không muốn ươm trong đầu mình ý nghĩ là sẽ còn có gì hơn. Tôi biết rõ, mọi tình yêu đều đòi hỏi vĩnh cữu, và do đó đã có sẳn mầm móng đau khổ thiên thu. Không có gì tồn tại mãi. Không có gì.
"Cho chúng ta một ly nữa, Fred," tôi nói.
Một đôi trai gái bước vào. Họ uống cocktail sherry tại quầy. Người đàn bà trông mệt mỏi, người đàn ông trông đầy dục vọng. Chẳng mấy chốc, họ lại đi.
Tôi cạn ly. Có lẽ tốt hơn nếu chiều nay tôi đã không thăm Pat. Sẽ không bao giờ tôi quên được hình ảnh ấy -- căn phòng tối mờ, bóng chiều xanh lơ êm ái, và hình dáng xinh đẹp của nàng, cuộn tròn, nói bằng một giọng khàn trầm về cuộc đời và ước vọng của nàng. Chết thật. Tôi trở nên ủy mị mất rồi. Điều mà cho đến nay chỉ là một cuộc phiêu lưu phấn khởi, đã tan chảy thành sương mù tình cảm; chẳng phải nó đã nắm giữ tôi vững hơn tôi nghĩ tưởng; chẳng phải tôi chỉ mới khám phá hôm nay rằng tôi thay đổi? Vì sao tôi bỏ đi? Vì sao tôi không ở lại với nàng như dự tính? Ach, chết thật, tôi sẽ không suy nghĩ về chuyện ấy nữa, bằng cách này hay cách khác. Cái gì đến sẽ đến -- thể nào tôi cũng điên lên nếu mất nàng -- nhưng nàng có ở đấy, nàng đang ở đây -- còn chuyện gì đáng kể hơn thế hay sao? Mặc kệ tất cả. Có ích gì, cố gắng làm cho cuộc sống nhỏ bé của chúng tôi an toàn hơn? Chẳng sớm thì muộn, con sóng dữ sẽ ập đến, cuốn phăng mọi thứ.
"Uống với tớ một ly nhé, Fred?" tôi hỏi.
"Vâng," anh nói.
Chúng tôi uống hai ly absinths. Rồi chúng tôi thẩy sấp ngửa tiền xu thêm hai ly. Tôi thắng. Đối với tôi, như thế có điều gì không ổn. Thế nên chúng tôi tiếp tục. Nhưng phải sau năm lần, tôi mới thua. Rồi tôi thua thêm ba lần liên tiếp.
"Tớ đang say hay sấm nổ bên ngoài?" tôi hỏi.
Fred lắng tai. "Là tiếng sấm. Cơn bão đầu tiên trong năm."
Chúng tôi đi ra cửa, nhìn trời. Không có gì. Tròi chỉ ấm, thỉnh thoảng lại có tiếng sấm đì đùng. "Chúng ta nên uống một ly mừng tiếng sấm," tôi đề nghị. Fred bằng lòng.
"Thứ nước cam thảo chết toi," tôi nói, đặt ly rượu cạn lên quày. Fred cũng nghĩ rằng chúng tôi nên thử một thứ khác mạnh hơn. Anh ấy đề nghị cherry brandy -- tôi muốn rum. Để tránh cãi cọ, chúng tôi tuần tự uống cả hai. Để Fred khỏi tốn công rót, chúng tôi dùng ly cở lớn. Chúng tôi đang rất mực hào hứng. Lâu lâu chúng tôi lại ra cửa để xem trời có chớp hay không. Chúng tôi thích được nhìn thấy chớp, nhưng không gặp may. Hễ chúng tôi vào trong, thì trời lại nhá sáng. Fred nói về người yêu của anh, cha cô ấy làm chủ một nhà hàng. Nhưng anh chỉ cưới cô ấy nếu cha cô chết đi và cô chắc chắn được để lại tiệm ăn. Tôi nghĩ, Fred cẩn thận quá độ, nhưng anh lý luận rằng lão già là một tay đểu cáng không thể tin tưởng, vào giờ chót, lão ấy hoàn toàn có thể hiến tặng nhà hàng cho nhà thờ Methodist. Ở chỗ này, tôi chịu thua. Ngoài chuyện ấy, có khá nhiều hy vọng cho Fred. Lão già đang cảm, và Fred tin rằng không chừng đấy là bịnh cúm, vốn rất nguy hiểm cho người cao tuổi như lão. Tôi bắt buộc phải nói, thật không may, bịnh cúm chẳng nghĩa lý gì với bợm nhậu, ngược lại là đàng khác, một bợm già, dù kiệt lực, bị cúm, vẫn có thể lành bệnh và khỏe hẳn ra, có khi còn lên cân không chừng. Fred nghĩ rằng không có nhiều khả năng như thế, và trong trường hợp ấy, cũng có thể lão sẽ bị xe buýt cán. Tôi đồng ý, bị xe cán chết dễ xảy ra hơn bị cúm chết, đặc biệt nếu đường xá trơn trợt. Do đó, Fred đi ra cửa xem trời đã mưa hay chưa. Nhưng trời vẫn khô ráo. Chỉ có tiếng sấm nổ to hơn một chút. Tôi trao anh một ly nước chanh và đến máy điện thoại. Vào phút chót, tôi nhớ là tôi không muốn gọi nàng. Tôi vẫy tay và sắp sửa nhấc mũ lên. Nhưng rồi tôi nhận ra, tôi không đội mũ.
Khi tôi quay lại, Koster và Lenz đã ở đấy. "Thở ra cho tớ ngửi nào," Gottfried nói.
Tôi thở ra. "Rum, cherry brandy và absinth," anh nói. "Absinth, đồ con heo."
"Nếu cậu định nói là tớ say, cậu đã lầm," tôi nói. "Nãy giờ hai người ở đâu vậy"
"Họp chính trị. Nhưng với Otto, buổi họp chán quá. Fred đang uống gì thế?"
"Nước chanh."
"Cậu cũng nên uống một ly," anh nói.
"Ngày mai," tôi trả lời. "Bây giờ tớ sắp đi kiếm cái gì để ăn."
Koster nhìn tôi với ánh mắt lo âu. "Đừng nhìn tớ như thế, Otto," tôi nói. "Tớ chỉ say một chút vì yêu đời. Không phải vì lo âu."
"Vậy không sao." anh nói. "Nhưng chúng ta cùng đi ăn với nhau nhé."
Đến mười một giờ, tôi đã tỉnh như sáo. Koster đề nghị chúng tôi ghé thăm Fred. Chúng tôi vào quán và thấy Fred nằm sóng sượt sau quày như người chết.
"Mang anh ấy qua phòng bên," Lenz nói. "Tớ sẽ bán thay."
Koster và tôi giúp Fred dã rượu. Chúng tôi cho anh uống một ít sữa nóng. Hiệu nghiệm tức thì. Rồi chúng tôi đặt anh ấy vào ghế, bảo anh ấy nghĩ ngơi chừng nửa giờ, Lenz sẽ trông coi mọi thứ bên ngoài.
Gottfried quán xuyến tất cả. Anh thông thạo giá cả và cách thức pha chế. Anh lắc cái ly pha rượu y hệt như cả đời anh chẳng làm chuyện gì khác hơn.
Một giờ sau, Fred trở lại chỗ cũ. Anh có một bao tử thép và phục hồi nhanh chóng.
"Xin lỗi Fred," tôi nói, "đáng lẽ mình phải ăn chút gì dằn bụng trước đã."
"Tớ khỏe rồi," anh nói. "Thỉnh thoảng làm một cú như thế lại tốt."
"Đúng vậy." Tôi đến máy điện thoại, quay số gọi Pat. Tất cả những gì tôi đã suy nghĩ, thình lình không còn quan trọng. Nàng trả lời. "Mười lăm phút nữa, anh sẽ có mặt trước cửa nhà em," tôi nói và cúp điện thoại ngay lập tức. Tôi sợ nàng mệt và không muốn nghe tôi nói. Tôi muốn gặp nàng.
Nàng đi ra. Khi nàng mở cửa, tôi hôn lên mặt kính nơi đầu nàng đã chạm. Nàng sắp sửa nói một điều gì đó, nhưng tôi không cho nàng cơ hội. Tôi hôn nàng và hai đứa rảo bước trên đường cho đến khi đón được một chiếc tắc xi. Sấm đang nổ và chớp đang nhoang nhoáng. "Nhanh lên, mưa đến nơi," tôi giục.
Chúng tôi ngồi vào xe. Những giọt mưa đầu tiên lác đác vỗ vào nóc xe. Xe dằn xóc trên mặt đường trải đá không đều. Thật tuyệt, với mỗi cái giật của xe, tôi lại chạm vào Pat bên tôi. Tất cả mọi thứ đều tuyệt vời, cơn mưa, thành phố, thưởng rượu, tất cả mọi thứ đều huy hoàng, tráng lệ. Tôi đang ở trong trạng thái rất tỉnh táo và sáng suốt thường có sau khi đã vượt khỏi cơn say. Sự chế ngự không còn, đêm bừng lên sức mạnh sâu xa và diễm lệ, không có gì có thể xảy ra, không có gì sai trái nữa.
Mưa bắt đầu rơi nhanh hơn khi chúng tôi xuống xe. Trong khi tôi trả tiền, lề đường hãy còn lỗ chỗ từng đốm đen bởi các giọt nước, như da báo ---nhưng khi tôi với lấy nắm cửa, nó trở thành đen loang loáng bạc, mưa đã ào ạt trút.
Tôi không bật đèn. Những tia chớp đủ soi sáng căn phòng. Bão giữa thành phố. Những chuỗi sấm nối đuôi nhau. "Lần này, chúng ta có thể hét toáng lên," tôi nói với Pat, "mà không sợ ai nghe."
Cửa sổ rực lửa. Trong giây phút, bóng đen của cây cối trong nghĩa trang nổi bật trên nền trời trắng - xanh rồi lập tức nhấn chìm dưới tiếng nổ ầm ì của trời đêm -- trong một khoảnh khắc giữa bóng tối và bóng tối, thân thể mềm mại của Pat sáng lân tinh trước những ô kính cửa sổ -- tôi đặt tay lên vai nàng, nàng nép vào tôi, tôi cảm nhận làn môi và hơi thở của nàng, tôi không còn nghĩ ngợi điều gì.