Chiến hữu - Chương 12.2

Đường phố, nhà cửa tiến gần. Karl trở nên dịu dàng, nhưng tiếng gầm của nó vẫn là tiếng của một con thú hoang. Koster không lái về nhà tôi hay nhà Pat, mà ngừng ở nghĩa trang gần đó, rõ ràng anh nghĩ, chúng tôi muốn được bên nhau. Chúng tôi xuống xe. Hai người kia phóng vèo ngay, không ngoái nhìn. Tôi liếc theo họ. Một cảm giác kỳ cục thoáng qua, rằng họ, bạn của tôi, đã bỏ đi và một mình tôi ở lại.
Tôi xua đuổi ý nghĩ ấy. "Này em," tôi nói với Pat, đang quan sát tôi như thể nàng có linh tính một chuyện gì.
"Anh theo họ đi," nàng nói.
"Không," tôi nói.
"Anh muốn đi theo họ mà, mặc dù --"
"Ach, tại sao lại ---" tôi nói, biết đấy là sự thật. "Thôi mà, em."
Chúng tôi đi ngang qua nghĩa trang; chúng tôi vẫn còn một ít cảm giác bồng bềnh, say gió và xe.
"Bob," Pat nói, "Em nghĩ, em nên về nhà em."
"Sao thế?"
"Em không muốn anh phải từ bỏ một thứ gì bởi em."
"Em nói gì thế ?" tôi nói, "anh có từ bỏ điều gì đâu?"
"Bạn anh --"
"Anh không bỏ bạn bè. Ngày mai, việc đầu tiên trong ngày là anh gặp họ."
"Nhưng, anh biết em muốn nói gì," nàng nói. "trước đây, anh đi với họ thường xuyên hơn."
"Vì lúc ấy chưa có em," tôi trả lời và mở cửa.
Nàng lắc đầu. "Cái ấy lại khác."
"Dĩ nhiên là khác, tạ ơn Chúa."
Tôi bế nàng trên tay, đi qua hành lang về phòng mình.
"Anh cần có chiến hữu," nàng nói, kề sát mặt tôi.
"Anh cũng cần có em," tôi trả lời.
"Nhưng không nhiều lắm."
"Rồi chúng ta sẽ thấy."
Tôi đẩy cửa phòng và để nàng xuống. Nàng bám vào tôi. "Em chỉ là một chiến hữu tồi, Robby."
"Hy vọng là thế," tôi nói. "Tuy nhiên, anh không muốn một người đàn bà là chiến hữu của anh. Anh muốn nàng là người tình."
"Em cũng không phải là người tình," nàng thì thào.
"Vậy em là ai?"
"Chỉ là phân nửa, không trọn vẹn. Một mảnh vụn --"
"Như thế lại hay hơn cả," tôi nói. "Sẽ khơi dậy trí tưởng tượng. Người ta mãi mãi yêu những người đàn bà ấy. Những người đàn bà hoàn hảo sớm gây nhàm chán. Những người cao sang, cũng thế. Còn những mảnh vụn đáng yêu, không bao giờ."
Bốn giờ sáng. Tôi đưa Pat về nhà nàng và đang trên đường trở lại. Trời đã rạng đông. Thoảng đâu đây mùi hương ngày mới.
Tôi đi dọc theo nghĩa trang, qua khỏi quán Café International, về nhà. Cửa quán rượu của tài xế tắc xi cạnh Phòng Thương Mại mở ra và một cô gái xuất hiện. Một cái mũ be bé, một cái áo khoác đỏ, ngắn, cũ mòn, đôi ủng cao, da bóng -- tôi sắp bước qua thì nhận ra cô ấy -- "Lisa!"
"Anh đây rồi!" nàng nói.
"Em từ đâu đến?" tôi hỏi.
Nàng làm một cử chỉ. "Em đã đợi ở đây nãy giờ. Em nghĩ, anh sẽ đi qua. Anh thường trở về nhà vào giờ này, phải không?'
"Vâng, đúng thế."
"Đi theo em nhé? " nàng hỏi.
Tôi ngập ngừng. "Anh không thể."
"Anh không cần trả tiền," nàng vội vàng nói.
"Không phải vậy đâu," tôi trả lời, không suy nghĩ. "Anh có tiền."
"Ach, vậy ra," nàng cay đắng nói, lui lại một bước.
Tôi cầm tay nàng. "Không, Lisa."
Mảnh mai và xanh xao, nàng đứng trên con đường vắng, xám. Tôi quen với nàng từ nhiều năm trước, khi tôi sống trong nhục cảm và cô đơn, không ai chăm sóc, không tình yêu. Lúc đầu nàng đầy nghi ngại, như các cô gái làng chơi ấy; nhưng rồi, sau khi chúng tôi nói chuyện với nhau nhiều lần, nàng phó thác tâm tư và quý mến tôi đến mức bệnh hoạn. Đây là một liên hệ kỳ lạ -- đôi khi nhiều tuần liên tiếp, tôi không gặp nàng, rồi bất ngờ một hôm, nàng sẽ đứng ở đâu đó, chờ tôi. Dạo ấy, chúng tôi chẳng có ai hay thứ gì -- vì thế, một chút ấm áp và bầu bạn mang nhiều ý nghĩa với chúng tôi hơn là ở những hoàn cảnh khác. Đã lâu, tôi không gặp nàng -- từ khi tôi biết Pat, không một lần gặp lại.
"Thời gian vừa qua, em ở đâu, Lisa?"
Nàng nhún vai. "Có gì khác chăng? Em chỉ muốn gặp anh. Vậy, em nghĩ, em có thể cút đi, hẳn rồi."
"Thế, công việc lúc này ra sao?"
"Đừng lo," nàng nói. "Anh không cần bận tâm."
Môi nàng rung rung. Trông nàng như người ốm đói lâu ngày.
"Anh sẽ đi với em một lúc," tôi nói.
Gương mặt nghèo khổ, vô cảm, phong trần của nàng bừng sáng và gần như biến thành trẻ thơ. Trên đường đi, ở nhà tạm trú của tài xế tắc xi, tôi mua vài món ăn cho nàng. Lúc đầu, nàng không muốn và chỉ đồng ý khi tôi giải thích rằng tôi đang đói meo. Nhưng nàng để ý sao cho tôi không bị gạt và mua nhầm hàng kém phẩm chất. Nàng không chịu cho tôi mua nửa cân thịt muối;, nàng nói hơn một phần tư cân đủ rồi, nếu ta lấy thêm vài khoanh xúc xích nhỏ. Nhưng tôi nhất định mua đủ nửa cân thịt muối và hai hộp xúc xích.
Nàng sống ở một căn gác mái, phải tự sắm sửa vật dụng. Một cây đèn dầu đặt trên bàn, và cạnh giường là ngọn nến đựng trong lọ thủy tinh. Các tấm ảnh cắt từ nhật báo đính trên tường bằng kim. Trên mặt tủ áo, dăm ba cuốn tiểu thuyết trinh thám nằm chơ vơ bên cạnh một xấp hình khiêu dâm. Khách của nàng, đặc biệt những người có vợ, đôi khi thích xem chúng. Lisa lùa chúng vào ngăn kéo, và lấy ra một tấm khăn bàn đã cũ, nhưng sạch.
Tôi mở gói thức ăn. Trong khi ấy, Lisa cởi bỏ y phục. Đầu tiên là cái áo đầm, dù tôi biết rõ, đôi ủng mới là thứ làm nàng đau nhất; nàng phải đi bộ nhiều biết mấy. Nàng đứng đấy, trong đôi ủng da bóng cao tận gối và tấm áo lót đen.
"Anh thấy chân em ra sao?" nàng hỏi.
"Hạng nhất, như bao giờ."
Nàng hài lòng và bấy giờ mới ngồi xuống giường, buông một tiếng thở dài nhẹ nhõm, cởi dây buộc giày. "Giá một trăm hai mươi marks," nàng nói, cầm chúng dơ lên trước mặt tôi. "Và chúng hỏng, trước khi ta kiếm đủ tiền mua đôi khác."
Nàng lấy từ tủ áo ra một chiếc kimono và một đôi hài gấm của thời vàng son đã bạc màu, và mỉm cười, tuồng như biết lỗi. Nàng muốn làm vui lòng tôi. Tôi chợt có một cảm giác nghẹn ngào, trên căn gác chật hẹp này, như thể có người thân vừa mất.
Chúng tôi ăn và tôi trò chuyện với nàng, mệt mỏi. Nhưng, vì tất cả những chuyện ấy, nàng nghĩ rằng có một điều gì đổi thay. Đôi mắt nàng hoảng sợ. Giữa chúng tôi chưa bao giờ có điều gì nhiều hơn là số phận đẩy đưa. Nhưng có lẽ chuyện ấy lại càng làm nặng nợ thêm và ràng buộc chúng tôi chặt chẽ hơn những việc khác.
"Anh ra về đấy à?" nàng hỏi, khi tôi đứng lên -- như thể nàng lo lắng.
"Anh có một cái hẹn."
Nàng nhìn tôi. "Muộn thế cơ?"
"Việc làm ăn. Rất quan trọng với anh, Lisa. Một người anh cần phải gặp. Tại Astoria, thường thường vào giờ này."
Không một người đàn bà nào nhạy cảm cho bằng Lisa trong vấn đề này. Nhưng chẳng có ai khó bị lừa dối như nàng. Gương mặt Lisa rỗng tuếch.
"Anh có người đàn bà khác."
"Nhưng Lisa -- chúng ta rất hiếm khi gặp nhau -- đã gần một năm nay -- em phải hiểu --"
"Không, em không có ý nói thế. Anh đã gặp một người mà anh yêu. Anh thay đổi hẳn. Em có thể cảm thấy điều ấy."
"Ach, -- Lisa"
"Vâng, vâng. Thú nhận đi."
"Anh cũng không hiểu anh lắm, Lisa. Có lẽ --"
Nàng đứng một lúc. Rồi gật đầu: "Vâng -- vâng -- dĩ nhiên --Và em ngu quá --thật tình chúng ta chẳng có gì với nhau --" Nàng lướt bàn tay trên trán. "Em không biết tại sao em lại ..."
Tấm thân mảnh dẽ đứng trước tôi, khao khát và ẻo lả. Đôi hài gấm -- áo kimono -- những đêm dài quạnh hiu -- kỷ niệm ..."
"Au revoir, Lisa ..."
"Anh về sao? Anh không ở lại đây thêm chút nữa? Anh về thật ư?"
Tôi hiểu nàng muốn nói gì. Nhưng tôi không thể. Đặc biệt vô cùng, nhưng tôi không thể, và tôi cảm nhận tường tận việc ấy. Chưa bao giờ cảm thấy như thế. Tôi không hề có một khái niệm cường điệu nào về lòng chung thủy. Nhưng chỉ giản dị là không thể nào được nữa. Bỗng nhiên tôi cảm thấy tôi đã tiến xa biết mấy.
Nàng đứng ở ngạch cửa. "Anh về đấy ư?" Nàng chạy vào trong. "Đây, em biết anh để tiền lại cho em -- dưới tờ báo. Em không cần tiền. Đấy -- đấy -- vâng, cứ đi thôi --"
"Anh phải đi, Lisa."
"Anh đừng bao giờ trở lại."
"Ô, anh sẽ trở lại, Lisa."
"Không, không, anh sẽ không bao giờ trở lại, em biết. Và anh đừng trở lại. Nhưng đi, đi ngay đi --"
Nàng khóc. Tôi bước xuống cầu thang và không nhìn lại.
Tôi đi thật lâu trên đường phố. Một đêm kỳ lạ. Tôi vẫn tỉnh táo và không thể ngủ. Tôi đi ngang quán International, nhớ về Lisa và những năm đã trôi qua, về những thứ tôi đã quên; nhưng dường như chúng quá xa vời và không thuộc về tôi nữa. Rồi tôi lang thang đến con đường của nhà Pat. Gió thổi mạnh hơn, tất cả cửa sổ ngôi nhà của nàng chìm trong bóng tối, bình minh lần mò bước chân xám qua những khung cửa; và cuối cùng, tôi trở về nhà.
Lạy Chúa, tôi nghĩ, tôi tin rằng tôi hạnh phúc.