Chiến hữu - Chương 13.2

"Anh có thể vào cửa nơi ấy, giờ này, hay sao?' anh ta hỏi.
"Anh thật tử tế hỏi tôi câu ấy," tôi nói; "nhưng đừng lo -- tôi có thể đến bất kỳ nơi nào."
Vừa nói xong, tôi hối tiếc ngay. Chắc chắn anh ta đã cảm thấy quan trọng và thành công suốt đêm. Thật tội, nếu tôi phá hỏng điều ấy. Tôi từ giã anh ta, thân ái còn hơn với Pat.
"The Bar" vẫn đông khách. Lenz và Ferdinand Grau đánh xì phé với Bollwies và vài ba người nữa. "Ngồi xuống đây, Bob, " Grottfried nói; "Đang mùa xì phé."
"Không," tôi trả lời.
"Xem kìa," anh nói, chỉ vào chồng tiền trên bàn. "Không cần tháu cáy. Bài đẹp lắm, toàn là 'thùng'."
"Thôi được," tôi nói, "chia cho tớ một tay."
Với hai con già, tôi tố và thắng bốn con bồi. "Vậy," tôi nói --"dường như cũng được mùa thấu cáy."
"Lúc nào lại chả thế," Ferdinand trả lời, đẩy điếu xì gà sang tôi.
Tôi không định ở lâu. Nhưng rồi tôi thấy yên tâm dần. Tôi không vui chi mấy; nhưng ít nhất chỗ này cũng là quê hương thân thiết của tôi. "Làm ơn đem đến nửa chai rum," tôi gọi Fred.
"Thử pha thêm chút port xem sao," Lenz nói.
"Không," tôi trả lời. "Không phải lúc thử. Tớ muốn say."
"Thì uống rượu ngọt vậy. Cậu vừa cãi nhau với ai hả?"
"Nói bậy."
"Đừng chối, bé yêu. Bé làm sao gạt được bố Lenz của Bé, người thông thạo tất cả những ngõ ngách cúa trái tim. Thú nhận đi, rồi uống cho say."
"Một người đàn ông không thể cãi nhau với một người đàn bà. Cùng lắm chỉ chuốc lấy bực dọc mà thôi."
"Đã ba giờ sáng, khó phân biệt những việc tế nhị như thế. Tớ thì cãi tưới sượi với tất cả. Khi không cãi nhau nữa, chẳng mấy chốc sẽ chia tay."
"Đúng," tôi nói. "Ai đang dẫn đầu thế?"
"Cậu," Ferdinand Grau nói. "Bob thân mến, cậu đang mắc bệnh thất vọng vì đời không đẹp như lý tưởng. Đừng cố gắng chống chọi nữa. Cuộc đời tươi đẹp nhưng không hoàn hảo. Mà tớ phải nhìn nhận, dù chán đời, cậu thấu cáy tuyệt lắm. Đôi già, không thể tưởng được."
"Có lần tớ thấy người ta đi bẩy ngàn quan cho đôi già," từ quầy rượu, Fred nói vọng lại.
"Quan Thụy Sĩ hay quan Pháp?" Lenz hỏi.
"Thụy Sĩ."
"Cậu may mắn nhỉ," Gottried trả lời. "Nếu quan Pháp, hẳn cậu không dám gián đoạn cuộc chơi, phải không?"
Chúng tôi tiếp tục khoảng một giờ nữa. Tôi thắng được khá tiền. Bollwies thua đậm. Tôi uống rượu, nhưng chỉ tổ nhức đầu. Vẫn không có khăn nâu vẫy gọi. Mọi thứ bén nhậy hơn. Dạ dầy tôi nóng rực.
"Ngừng chơi, ăn một chút gì nào," Lenz nói. "Fred ơi, dọn cho cậu ấy bánh mì kẹp thịt và vài con cá mòi nhé. Cất tiền đi, Bob."
"Một ván nữa thôi,"
"Được. Ván cuối cùng. Kiểu Đôi?"
"Kiểu Đôi," những người kia nói.
Không mong đợi, nhưng tôi được ba lá rất tốt thêm vào con mười già sẳn có. Lá bồi, đầm và ách. Nhờ thế, tôi thắng sảnh tám của Bollwies, hắn tố cao ngất trời. Vừa chửi thề, hắn vừa chung tôi một đống tiền. "Cậu thấy chưa," Lenz nói. "Được mùa "thùng'."
Chúng tôi ngồi ở quầy. Bollwies hỏi thăm Karl. Anh ta vẫn chưa quên Koster đã vẻ vang qua mặt xe đua của anh. Anh vẫn muốn mua lại Karl.
"Hỏi Otto đấy," Lenz nói; "nhưng tớ nghĩ rằng cậu ấy thà bán một bàn tay cho cậu thì hơn."
"Ôi chao, ôi chao," Bollwies nói.
"Dĩ nhiên cậu làm sao hiểu được," Lenz trả lời, "cậu, tên lính đánh thuê ở thế kỷ hai mươi."
Ferdinand Grau cười lớn. Fred cũng cười. Cuối cùng, tất cả chúng tôi đều cười. Không cười nhạo thế kỷ hai mươi thì có khác nào tự bắn mình. Nhưng ta không thể cười mãi. Đến một lúc nào đó, lại chảy nước mắt.
"Cậu biết khiêu vũ không, Gottfried?" tôi hỏi.
"Dĩ nhiên. Tớ đã có lần dạy khiêu vũ. Cậu quên cách nhảy rồi sao?"
"Quên -- để cho chú chàng quên đi," Ferdinand Grau nói. "Quên lãng là bí quyết để trẻ trung bất tận. Người ta già đi qua kỷ niệm. Chẳng mấy khi quên đi chuyện cũ."
"Không phải thế," Lenz nói. "mà chính vì chuyện sai quấy bị lãng quên."
"Cậu dạy tớ nhé?" tôi hỏi.
"Khiêu vũ? Cần một đêm thôi, Bé ơi. Phiền muộn của cậu chỉ có bấy nhiêu ư?"
"Chẳng phiền muộn gì cả," tôi nói. "Nhức đầu."
"Đấy là căn bệnh của thời đại, Bob," Ferdinand nói. "Có lẽ sẽ tốt hơn nếu ta sinh ra đời không đầu."
Tôi đến quán Café International. Alois đang hạ màn cửa.
"Còn ai trong đó không?" tôi hỏi.
"Còn Rosa."
"Vậy ba đứa mình làm một chầu nữa."
"Được thôi."
Rosa ngồi cạnh quầy, đan mấy cái vớ bé xiu cho con gái. Chị khoe kiểu đan với chúng tôi. Chị vừa hoàn tất một cái áo khoác. "Công việc của chị khá không?" tôi hỏi.
"Tệ lắm. Chẳng ai có tiền."
"Chị muốn mượn tiền không? Đây -- tiền ăn xì phé."
"Tiền ăn bài may mắn lắm," Rosa nói, nhổ một tí nước bọt lên đó, rồi cất đi.
Alois đem lại ba cốc rượu. Sau đó, khi có Fritzi, lại một cốc nữa.
"Đã đến giờ đóng cửa,"anh nói. "Tớ mệt chết đi được."
Anh tắt đèn. Chúng tôi ra về. Ở cửa, Rosa nói lời từ biệt. Fritzi bám vào cánh tay Alois. Chị tươi tắn và nhẹ nhàng bên anh. Anh kéo lệt bệt bàn chân phẳng trên vĩa hè. Tôi đứng trông theo. Tôi thấy cách Fritzi âu yếm cúi hôn anh bồi bàn có tấm thân xiêu vẹo, đầy dầu mở. Anh ta lạnh nhạt xô chị ra. Bỗng nhiên, khi tôi quay đi, nhìn con đường vắng và những căn nhà với cửa sổ tối và bầu trời khuya giá rét, một nỗi nhớ thương Pat, cuồng điên, bỗng dưng bằng cách nào đó, ào ạt xâm chiếm hồn tôi, khiến tôi nghĩ mình sắp sửa té khuỵu. Tôi không hiểu gì hết, bản thân tôi, hành vi của tôi, và buổi tối hôm nay, tôi hoàn toàn chẳng hiểu gì.
Tôi dựa lên vách một ngôi nhà và trân trối nhìn khoảng không trước mặt. Tôi không biết vì sao tôi đã cư xử như thế. Một thứ gì đó đã bẻ gãy tôi, khiến tôi trở nên vô lý và bất công, đã quăng quật tôi tứ phía và hủy diệt tất cả những gì tôi dày công xây đắp. Tôi đứng đấy, bất lực, không biết phải làm gì. Tôi không muốn về nhà -- vì có khi ở nhà còn tệ hơn. Cuối cùng tôi nhớ ra, có thể Alfons' vẫn còn mở cửa. Tôi đến đấy và sẽ ở lại đến sáng.
Alfons không nói chi hết khi tôi bước vào. Anh đưa tôi một cái ly thấp và tiếp tục đọc báo. Tôi ngồi xuống và tơ mơ ngủ. Ngoài tôi, không còn ai nữa. Tôi nghĩ đến Pat. Luôn luôn là Pat. Tôi nghĩ về cách cư xử của tôi. Thình lình tôi nhớ lại từng chi tiết. Mọi thứ đều chống lại tôi. Chỉ một mình tôi có lỗi. Tôi đã điên. Tôi ngây dại nhìn xuống bàn. Máu cuồn cuộn sôi trong đầu. Tôi cay đắng và nổi giận với chính mình và sự xuẩn ngốc của mình. Chỉ có tôi, một mình tôi, là người đã phá hỏng tất cả.
Tiếng thủy tinh bất ngờ vỡ vụn. Với tất cả sức lực, tôi đấm ly rượu của tôi bể thành nhiều mảnh. "Một hình thức giải trí," Alfons nói, đứng lên.
Anh gỡ những dầm thủy tinh khỏi tay tôi. "Xin lỗi cậu," tôi nói, "tớ quên phứt mình đang ở đâu."
Anh đi lấy bông, băng. "Đi chơi đĩ," anh nói, "sẽ đỡ buồn hơn."
"Không sao," tôi nói. "Chuyện đã qua. Chỉ là cơn giận dữ trong chốc lát."
"Cậu phải giải trí để xoa dịu cơn giận, đừng nên khuấy động nó," Alfons nói.
"Đúng," tôi nói, "nhưng cũng phải biết cách."
"Phải tập chứ sao. Nếu không, ta chỉ muốn húc đầu cho thủng vách tường. Nhưng thời gian sẽ làm nhạt phai tất cả."
Anh đặt đĩa hát có bài Miserere của nhạc kịch ll Trovatore vào máy. Trời rạng sáng rất nhanh.
Tôi về nhà. Alfons đã rót cho tôi một ly Fernet-Branca to tướng. Những nhát rìu êm dịu bổ vào mi mắt tôi. Mặt đường không còn bằng phẳng. Đôi vai nặng như chì. Đã quá đủ, tôi đã xong.
Tôi lò dò bước lên thềm và khuắn tay vào túi tìm chìa khóa. Trong bóng tối lù mù, tôi nghe tiếng thở -- một cái bóng nhợt nhạt, không rõ nét, ngồi thu lu trên những nấc trên cùng. Tôi nhảy ba bước liền .
"Pat --" tôi ngỡ ngàng không hiểu, "Pat -- sao em lại ở đây?"
Nàng khẻ cục cựa. "Em nghĩ mình đã thiếp ngủ."
"Vâng, nhưng làm sao mà em đến đây?"
"Em có chìa khóa nhà anh --"
"Anh không hỏi về chuyện ấy, anh muốn nói ---" Cơn say biến mất, tôi nhìn thấy lớp thảm xác xơ của bậc thang, giấy hoa dán tường tróc lở và chiếc áo óng ánh bạc cùng đôi giày mủi thon, da bóng. "Anh muốn hỏi, làm sao em ngồi đây suốt --"
"Em cũng tự hỏi điều ấy đã lâu."
Nàng đứng lên và vươn vai, tự nhiên như thể ngồi ở bậc thềm trước cửa khi trời chưa sáng là một việc bình thường nhất trên đời. Rồi nàng hít ngửi. "Lenz sẽ nói -- cognac, rum, cherry, absinth --"
"Có Fernet -- Branca nữa cơ," tôi nhìn nhận, ít ra, từ đầu cũng phải thẳng thắn. "Dù mù mắt, anh cũng thấy em là một cô gái tuyệt vời, và anh là một thằng đại ngốc, Pat ạ."
Tôi nhanh nhẹn bế nàng lên, mở cửa và đi qua hành lang. Nàng nằm trong tay tôi, môt con diệc bạc, một con chim rã rời; tôi quay mặt để nàng không ngửi phải hơi thở nồng nặc mùi rượu của tôi, và tôi cảm thấy nàng run rẩy dù đang mỉm cười.
Tôi đặt nàng xuống ghế bành, bật đèn và đem một tấm chăn nhỏ đến. "Nếu như anh biết, Pat -- thay vì la cà ở những nơi ấy, anh đã -- Ach, anh đần quá. Ở quán Alfons', anh có gọi điện thoại cho em và huýt sáo bên ngoài, dưới cửa sổ nhà em. Anh tưởng em không muốn, vì em không trả lời --"
"Tại sao anh không trở lại, sau khi đưa em về?"
"Vâng, lẽ ra anh phải hiểu --"
"Lần tới có lẽ khá hơn, nếu anh đưa cho em chìa khóa phòng anh," nàng nói; "như thế, em sẽ không phải ngồi đợi bên ngoài." Nàng mỉm cười, nhưng đôi môi run run, và thình lình tôi chợt nhận ra ý nghĩa của những việc này với nàng, sự trở lại, sự chờ đợi, và giọng nói vui tươi, can đảm.
"Pat," vô cùng bối rối, tôi vội vàng nói. "Em đang lạnh cóng. Em cần uống một thứ gì cho ấm người; hồi nãy ở ngoài kia, anh thấy đèn phòng Orlow còn sáng; để anh qua đó, người Nga lúc nào cũng có sẳn trà, anh sẽ trở về ngay lập tức," -- tôi thấy mình cuồng nhiệt lên --" suốt đời, anh sẽ không bao giờ quên, Pat." Từ cửa, tôi nói vọng lại và bước vội trên hành lang.
Orlow vẫn còn thức. Anh ngồi trước tượng thờ ở góc phòng, một ngọn đèn thắp sáng phía trước; mắt anh đỏ quạch, và trên bàn, một cái ấm Nga đang bốc hơi nước.
"Xin lỗi," tôi nói, "tôi có chuyện cần kíp bất ngờ -- anh có thể cho tôi xin một chút trà nóng không ạ?"
Người Nga đã quen với những chuyện bất ngờ. Ông đưa tôi hai ly trà nóng, một ít đường, và sắp mấy cái bánh nhỏ vào dĩa cho tôi.
"Tôi rất vui được giúp anh," ông nói. "Tôi thường lâm vào hoàn cảnh tương tự... Anh có muốn thêm -- một ít hạt cà phê-- để nhai không?"
"Cám ơn anh," tôi nói, "thật thế ư, tôi xin cám ơn. Tôi thích lắm ạ."
"Nếu anh cần chi nữa," vô cùng duyên dáng, ông nói, "tôi còn thức thêm một lúc; tôi sẽ hân hạnh giúp --"
Khi quay về, trên hành lang tôi cắn vụn vài hạt cà phê. Chúng đánh bạt ngay mùi rượu mạnh. Pat ngồi bên đèn, đang tô phấn. Tôi ngừng lại ở khung cửa trong giây lát. Tôi cảm động trước hình ảnh nàng ngồi đấy, chăm chú nhìn vào chiếc gương nhỏ và chậm bông phấn lên má.
"Em uống chút trà đi," tôi nói. "Trà khá nóng."
Nàng cầm ly trà, tôi nhìn nàng uống.
"Chỉ có quỷ sứ mới biết chuyện gì đã xảy ra tối nay, Pat ạ."
"Ôi, nhưng em biết đấy," nàng trả lời.
"Vậy sao? Anh không biết."
"Và anh không cần biết, Robby. Nhưng nếu anh hỏi, em sẽ trả lời, là anh đã biết quá nhiều để thực sự thấy hạnh phúc."
"Có lẽ," tôi nói. " Nhưng chẳng ích gì, vì càng quen biết em, anh càng trở thành trẻ nít."
"Ô, vâng, có ích chứ. Còn hơn là anh càng lúc lại càng dễ cáu giận."
"Đấy là một cách đánh giá vấn đề," tôi nói. "Em có cách thức tốt, giúp người khác vượt qua khó khăn. Nhưng dường như tất cả mọi thứ xảy ra dồn dập quá, bất ngờ quá."
Nàng đặt ly xuống bàn. Tôi tựa lên giường. Tôi có cảm giác như cuối cùng, mình đã về đến nhà, sau một cuộc hành trình gian khổ.
Lũ chim bắt đầu ríu rít. Có tiếng cửa đóng sầm lại. Đấy là Frau Bender, y tá làm ở viện mồ côi. Tôi nhìn đồng hồ tay. Nửa giờ nữa, Frida sẽ có mặt trong bếp; lúc ấy chúng tôi không thể trốn ra khỏi nhà mà không bị bắt gặp. Pat vẫn ngủ say. Hơi thở sâu và đều. Thật bậy nếu phải đánh thức nàng. Nhưng không thể nào làm khác hơn.
"Pat --"
Nàng lẩm bẩm một điều gì trong mơ. "Pat -- " tôi rủa thầm tất cả các phòng trọ. "Pat, đến giờ rồi. Em phải mặc y phục vào."
Nàng mở mắt và mỉm cười, vẫn ấm áp trong giấc ngủ, như một đứa trẻ. Tôi không bao giờ ngừng ngạc nhiên trước sự thức dậy vui vẻ này, và tôi rất thích nàng như thế. Tôi chẳng bao giờ vui tươi khi thức giấc.
"Pat -- Frau Zalewski đang đánh răng."
"Hôm nay, em ở lại với anh --"
"Tại đây?"
"Vâng."
"Ý kiến tuyệt diệu-- nhưng những thứ của em -- giày và áo của em, là thứ dành cho ban đêm."
"Vậy em sẽ ở lại cho đến tối."
"Còn nhà em thì sao?"
"Chúng ta sẽ gọi điện thoại, báo cho họ biết em đang qua đêm ở một chỗ nào đấy."
"Chúng ta sẽ gọi ngay. Em đói chưa?'
"Chưa."
"Dù sao chăng nữa, anh cũng sẽ chạy ù ra lấy mấy miếng bánh mì. Họ treo trên cửa hành lang. Chắc vừa đúng lúc."
Khi tôi trở lại, Pat đứng bên cửa sổ. Nàng chỉ mang mỗi đôi giày bạc. Nắng mai êm đềm phủ lên vai nàng như một chiếc khăn san.
"Chúng ta quên chuyện hôm qua, Pat nhé?" tôi nói.
Nàng gật đầu mà không quay lại.
"Chúng ta chỉ cần không đi chơi với ai nữa. Tình yêu chân thật không có chỗ cho người khác. Như thế chúng ta sẽ không cãi nhau và không lên cơn ghen nữa. Mặc cho gã Breuer và những người ấy đi về địa ngục, phải không em?"
"Vâng," nàng nói, "và Markowitz nữa."
"Markowitz? Ai thế?"
"Người ngồi cạnh anh ở quầy rượu quán 'The Cascade'."
"À há," tôi nói, bỗng nhiên vui sướng. "À há, người ấy."
Tôi lộn trái túi áo quần. "Em nhìn đây. Dù sao chuyện ấy cũng hữu ích. Anh đánh xì phé, thắng một số tiền lớn. Tối nay chúng ta đi chơi nữa nhé. Nhưng, không đi với ai cả. Chúng ta quên họ đi, em nhé?"
Nàng gật đầu.
Mặt trời nhô lên trên mái Nhà Thương Mại. Các cửa kính bắt đầu lấp lánh. Tóc Pat đầy ánh sáng và đôi vai nàng óng như vàng.
"Em nói mà anh quên mất, gã Breuer ấy, hắn làm nghề ngỗng gì thế? Anh muốn nói, nghề chuyên môn?"
"Kiến trúc sư."
"Kiến trúc sư," tôi nói, đau như hoạn -- tôi muốn nghe nàng nói hắn chẳng là gì cả --"Ôi, dù sao đi nữa, kiến trúc sư; là cái quỷ gì, hở Pat?"
"Vâng, anh yêu."
"Không có gì đặc biệt cả, phải không?"
"Không có gì đặc biệt," Pat quả quyết nói, quay lại và cười to. "Chẳng là gì cả, tuyệt đối như thế. Chỉ là bùn đất mà thôi. "
"Và cái chòi này, không đến nỗi nào chứ, hở Pat? Dĩ nhiên, người khác có nhà cửa đẹp hơn --"
"Căn phòng này, tuyệt vời," nàng chặn lời tôi; "đây là một căn phòng hoàn toàn đáng yêu, em thật tình không biết có căn phòng nào khác như thế, anh yêu."
"Và anh, Pat, anh có những thiếu sót, dĩ nhiên, và anh chỉ là một tài xế tắc xi, nhưng --"
"Anh là một người yêu toàn hảo, -- một người giật bánh mì, một tay bợm nhậu, -- một anh yêu."
Nàng vòng tay ôm cổ tôi. "Ach, chàng ngốc! Thật sung sướng khi ta được sống!"
"Chỉ khi sống bên em. Thật thế."
Bình minh dâng lên, tuyệt vời và tươi sáng. Một làn sương giăng mỏng trên những mộ bia bên dưới và trôi giạt bềnh bồng. Những chóp cây đã đầy ánh sáng. Khói cuộn lên từ ống khói trên mái nhà. Những người phát báo sớm nhất đã bắt đầu rao ơi ới trên đường. Chúng tôi nằm xuống, một giấc ngủ muộn, nửa tỉnh nửa mê, trên biên giới của giấc ngủ, chúng tôi mơ thấy mình tay trong tay -- ngây ngất, hơi thở trong hơi thở. Rồi khoảng chín giờ sáng, ông "Geheimrat Burkkhard" đích thân gọi điện cho Trung Tá Egbert von Hake; và rồi tôi gọi Lenz, nhờ anh lái tắc xi giúp tôi sáng nay.
Anh cắt lời tôi. "Để mặc tớ lo, con ạ; chẳng phải khi không mà Gottfried này là chuyên gia thẩm định những biến đổi của trái tim nhân thế. Tớ đã tính sẳn rồi. Chúc thằng bé may mắn có nhiều niềm vui."
"Thôi đi ông," tôi sung sướng gạt ngang và giải thích, đứng trong bếp, rằng tôi không được khỏe và muốn nằm nghĩ đến trưa. Tôi phải từ chối ba đợt tấn công của Frau Zalewski, mời tôi trà cúc, aspirin và các bịch nước đá chuồm. Rồi tôi len lén đưa được Pat vào buồng tắm, và rồi chúng tôi được bình an.