Anh chàng Hobbit - chương 08a
Chương VIII - ĐÀN RUỒI VÀ BẦY NHỆN
Họ đi bộ thành hàng một. Lối vào con đường đó giống
như cổng vòm dẫn vào một đường hầm tối tăm do hai cây to chụm vào nhau; hai cây
này quá già cỗi, lại chi chít những dây thường xuân và tua tủa địa y nên chỉ mọc
dăm chiếc lá màu tối sẫm. Bản thân con đường cũng hẹp, ngoằn ngoèo chạy qua các
thân cây. Chẳng mấy chốc ánh sáng ở cửa rừng chỉ còn như một cái lỗ nhỏ sáng
chói mãi tít ở phía sau, và sự tĩnh mịch thì trầm lắng đến mức tiếng bước chân
của họ dường như vang dồn khắp khu rừng khiến cây cối cũng ngả mình lắng nghe.
Đến khi mắt họ dần quen với quang cảnh mờ tối, họ có
thể nhìn được một quãng ngắn ở hai bên trong thứ ánh sáng le lói màu lục thẫm.
Thi thoảng một tia nắng yếu ớt may mắn luồn qua kẽ hở nào đó trong đám lá tít
trên cao, và còn may mắn hơn vì không bị kẹt vào đám cành cây lớn nhỏ rối tinh
rối mù ở bên dưới, xuyên thẳng xuống thành một vệt rực rỡ và mong manh trước mặt
họ. Nhưng điều này hiếm khi xảy ra, và vệt nắng ấy chẳng mấy chốc cũng tắt ngấm.
Trong rừng có những chú sóc đen. Khi đôi mắt soi mói
đầy tinh tường của Bilbo đã quen nhìn mọi vật, anh chàng có thể thoáng thấy
chúng chạy vun vút khỏi con đường và vội vã lẩn sau những thân cây. Cũng có những
âm thanh kỳ lạ nữa, tiếng gầm gừ, tiếng xô đẩy, tiếng vội vã chạy dưới tầng cây
thấp và trong đám lá chất đầy mãi thành đống ở nhiều nơi trên nền đất rừng;
nhưng cái gì gây ra những âm thanh ấy thì anh chàng không thể nhìn thấy. Thứ
kinh tởm nhất mà họ nhìn thấy là mạng nhện: những mạng nhện đen sì dày đặc với
những sợi tơ to lạ lùng, thường được giăng từ cây nọ sang cây kia, hoặc rậm rịt
giữa các cành cây thấp hơn ở hai bên đường. Không có cái mạng nhện nào giăng
ngang đường, nhưng liệu có phải do một ma thuật nào đó khiến con đường được
thông suốt hay vì một lý do nào khác thì họ không thể đoán ra.
Chẳng mấy chốc họ bắt đầu rất căm ghét khu rừng cũng
như đã từng căm ghét những đường hầm của bọn yêu tinh, mà khu rừng hầu như còn
đem lại cho họ ít hy vọng hơn về bất kỳ một điểm dừng nào. Mặc dù vậy, họ vẫn
phải tiếp tục đi, đi mãi, suốt một thời gian dài sau khi họ thèm đến nôn nao
hình ảnh mặt trời và bầu trời, và ước mong được có cái cảm giác gió mơn man
trên mặt. Bên dưới vòm lá rừng, bầu không khí tù đọng, mãi mãi tối tăm và ngột
ngạt. Ngay cả các chú lùn cũng cảm thấy điều đó, dù họ quen với việc đào hầm và
đôi khi từng sống một thời gian dài không có ánh sáng mặt trời; còn anh chàng
hobbit, tuy thích làm nhà trong các hang hốc nhưng không chui rúc trong đó suốt
những ngày hè, thì cảm thấy mình dần dần bị nghẹt thở.
Ban đêm là khoảng thời gian tệ hại nhất. Khi đó trời
trở nên tối như mực - không phải là cái trạng thái mà các bạn gọi là như mực,
mà thật sự là mực: tối đen đến mức các bạn không thể nhìn thấy gì hết. Bilbo thử
huơ huơ bàn tay trước mũi mình, nhưng anh chàng chẳng nhìn thấy nó đâu cả. Chà,
có lẽ bảo rằng họ không thể nhìn thấy gì hết thì cũng không đúng: họ nhìn thấy
những con mắt. Tất cả bọn họ túm tụm lại với nhau mà ngủ và cắt lượt canh gác;
và khi đến lượt Bilbo, anh chàng thường nhìn thấy những ánh lập lòe trong bóng
tối xung quanh họ, và đôi khi những cặp mắt màu vàng, đỏ hoặc xanh lá nhìn chằm
chằm vào anh chàng từ một khoảng cách ngắn, rồi chúng mờ dần và biến mất, để rồi
lại từ từ tỏa sáng ở một chỗ khác. Đôi khi chúng lại lập lòe chiếu xuống từ những
cành cây ngay trên đầu anh chàng; và điều đó vô cùng khủng khiếp. Song cặp mắt
mà anh chàng ghét nhất là những cặp mắt lồi nhợt nhạt đáng kinh tởm. “Mắt côn
trùng,” anh chàng nghĩ bụng, “không phải mắt thú vật, chỉ có điều là chúng to
quá đi mất.”
Mặc dù trời chưa lạnh lắm, họ vẫn cố nhóm lửa để
canh gác vào ban đêm, nhưng chẳng bao lâu sau họ thôi không đốt lửa nữa. Dường
như lửa đã mang đến hàng trăm hàng trăm cặp mắt xung quanh họ, dù những con vật
này, bất kể chúng là loài gì đi nữa, cũng thận trọng để không bao giờ phô mình
ra trong ánh sáng lập lòe yếu ớt của lửa. Tệ hại hơn nữa, lửa còn mang đến hàng
ngàn con bướm đêm màu xám sẫm và màu đen, một số to bằng bàn tay, cứ đập cánh
bay vù vù quanh tai họ. Họ không chịu đựng nổi lũ này, mà cũng chẳng chịu đựng
nổi bầy dơi khổng lồ đen sì kia; thế là họ bỏ không đốt lửa nữa mà ngồi ngủ gà
ngủ gật trong đêm dưới bóng tối mênh mông huyền bí.
Toàn bộ chuyện đó cứ tiếp diễn mãi, anh chàng hobbit
tưởng như đã hàng thế kỷ trôi qua; và anh chàng lại luôn đói bụng, bởi họ vô
cùng thận trọng với phần thực phẩm dự trữ. Dù vậy, khi hết ngày này đến ngày
khác qua đi mà rừng cây dường như vẫn cứ y như thế, họ bắt đầu lo lắng. Số thực
phẩm sẽ không thể đủ dùng mãi được: trên thực tế nó đã bắt đầu cạn dần. Họ tìm
cách bắn sóc, và phải tốn nhiều mũi tên họ mới hạ được một con trên đường mòn.
Nhưng khi nướng nó lên, họ thấy thịt nó có cái vị thật kinh tởm, và họ thôi
không bắn sóc nữa.
Họ cũng khát nữa, bởi số nước họ mang theo có nhiều
nhặn gì đâu, và suốt cả thời gian ấy họ chẳng nhìn thấy dòng suối hay con sông
nào. Tình cảnh họ đang như vậy thì một hôm họ bỗng thấy con đường bị chặn ngang
bởi một dòng nước chảy. Dòng nước dữ dội chảy xiết qua con đường, nhìn lại
không rộng lắm, và nước thì đen, hoặc nom có vẻ đen trong bóng tối. Thật may là
Beorn đã dặn họ cảnh giác đề phòng nó, nếu không họ đã lấy nước uống, dù nước
có bất kỳ màu gì, và đã đổ đầy vài cái bầu bằng da khô kiệt bên bờ sông rồi. Có
thể vì vậy mà họ chỉ nghĩ đến việc làm thế nào để sang bờ bên kia mà không bị ướt.
Trước kia có một cây cầu gỗ bắc ngang, nhưng cầu đã mục nát và đổ sụp, chỉ còn
lại mấy cái trụ gãy ở gần bờ.
Bilbo quỳ bên mép nước và chăm chú nhìn về phía trước
rồi kêu lên: “Có một cái thuyền ở sát bờ bên kia! Mà sao nó lại không ở bên này
cơ chứ!”
“Theo cậu thì nó cách đây bao xa?” Thorin hỏi, bởi
lúc này họ biết là Bilbo tinh mắt nhất trong cả bọn.
“Có xa gì cho cam. Tôi cho là không quá mười hai thước.”
“Mười hai thước! Ta đã nghĩ là ít nhất phải ba mươi
thước, nhưng mắt ta bây giờ nhìn không được tinh bằng một trăm năm trước. Tuy vậy
thì mười hai thước cũng đâu khác gì một dặm. Chúng ta không thể nhảy qua, và
chúng ta cũng không dám thử lội hoặc bơi qua nữa.”
“Có ai trong các vị có thể ném thừng không nhỉ?”
“Làm thế thì tích sự gì? Ngay cả nếu chúng ta có móc
được nó, mà điều này thì tôi không tin lắm, thì cái thuyền ấy chắc chắn đã được
buộc chặt rồi.”
“Tôi không cho là nó được buộc chặt,” Bilbo nói, “dù
dĩ nhiên là với ánh sáng thế này thì tôi không dám chắc; nhưng tôi thấy có vẻ
như nó vừa mới được kéo lên bờ, ngay sát cái chỗ con đường đâm xuống dòng nước ấy.”
“Dori là cậu khỏe nhất, nhưng Fili lại là cậu trẻ nhất
và mắt tinh nhất,” Thorin nói. “Lại đây Fili, cậu thử xem có nhìn thấy cái thuyền
mà cậu Baggins vừa nói không?”
Fili nghĩ là mình có thể; thế là sau khi chú ta nhìn
chằm chằm một lúc lâu để xác định phương hướng, mấy chú khác đem đến cho chú một
sợi thừng. Họ đã đem theo dăm sợi thừng, và họ buộc vào đầu sợi thừng dài nhất
một trong những cái móc lớn mà khi trước họ dùng để móc những gói đồ vào dây
đai quanh vai. Fili cầm sợi thừng trong tay, giữ cho nó thăng bằng một chút, rồi
quăng nó qua dòng suối.
Bõm! Cái móc rơi xuống nước. “Chưa ném đủ xa!” Bilbo
nói. Anh chàng đang chăm chú nhìn về phía trước. “Xa được thêm vài bộ thì anh
đã thả được nó lên con thuyền rồi. Cố lần nữa đi. Tôi không nghĩ là ma thuật đủ
mạnh để làm hại anh đâu, nếu anh chỉ chạm một tí vào cái thừng ướt ấy.”
Fili nhặt cái móc lên sau khi đã kéo nó lại, lòng vẫn
hơi do dự. Lần này chú ném thật mạnh.
“Đứng cho vững nào!” Bilbo nói, “anh đã ném đúng vào
phần gỗ phía bên kia mạn thuyền rồi. Hãy nhè nhẹ kéo sợi dây lại đi.” Fili từ từ
kéo sợi thừng, và một lát sau Bilbo nói, “Cẩn thận! Nó đang nằm trên thuyền rồi;
hy vọng là cái móc sẽ mắc vào thuyền.”
Nó mắc vào thật. Sợi thừng căng ra, nhưng Fili kéo
hoài mà chẳng ăn thua gì. Kili đến giúp sức, rồi thêm cả Oin và Gloin. Họ ráng
sức kéo thật mạnh, và bỗng nhiên cả bọn ngã bổ chửng. Tuy vậy, Bilbo đã đề
phòng nên tóm được sợi thừng và dùng gậy đẩy cái thuyền nhỏ đen sì ấy lại khi
nó băng qua dòng suối. “Giúp tôi với!” anh chàng kêu to, và Balin đến vừa kịp để
giữ cái thuyền trước khi nó trôi xuôi dòng nước.
“Rốt cuộc thì nó đã bị buộc chặt,” Balin vừa nói vừa
nhìn mẩu dây néo thuyền bị đứt còn đang lủng lẳng ở mũi thuyền. “Kéo tuyệt đấy,
các cậu; và thật may cái thừng của chúng ta lại khỏe hơn.”
“Ai sẽ sang sông đầu tiên nhỉ?”
“Ta sẽ sang,” Thorin nói, “và cậu sẽ đi với ta, cả
Fili và Balin nữa. Mỗi lần con thuyền chỉ chở được ngần ấy người thôi. Chuyến
sau sẽ gồm Kili, Oin, Gloin và Dori; sau đó là Ori, Nori, Bifur và Bofur; và cuối
cùng là Dwalin và Bombur.”
“Bao giờ tôi cũng là người cuối cùng, tôi không
thích thế đâu,” Bombur nói. “Hôm nay đến lượt một người nào khác đi.”
“Lẽ ra cậu không nên to béo như thế. Vì to béo, cậu
phải theo chuyến cuối cùng có trọng tải nhẹ nhất. Đừng có làu bàu cãi lệnh, nếu
không sẽ có chuyện chẳng lành xảy ra với cậu đấy.”
“Chẳng có cái mái chèo nào cả. Các vị làm thế nào đẩy
được cái thuyền trở về bờ bên kia được?”
“Cho tôi một sợi thừng dài cột móc treo khác,” Fili
nói, và khi họ chuẩn bị xong, chú ta ném sợi dây thật cao vào bóng tối trước mặt.
Vì cái móc không rơi xuống nữa, họ biết nó hẳn đã mắc vào những cành cây. “Giờ
thì lên thuyền đi,” Fili nói, “và một người trong số các bạn kéo cái thừng đã mắc
vào một cái cây ở bờ bên kia. Một người khác phải giữ cái móc mà chúng ta dùng
lần đầu, và khi chúng ta sang bờ bên kia an toàn rồi thì người đó có thể móc nó
vào thuyền, và các bạn có thể kéo thuyền về lại bên này.”
Bằng cách đó chẳng mấy chốc tất cả bọn họ đều vượt
qua dòng suối bị yểm bùa một cách an toàn. Dwalin vừa mới bò ra khỏi thuyền với
cái thừng cuộn trên cánh tay, và Bombur (vẫn còn đang làu bàu) vừa sẵn sàng
trèo ra tiếp thì một chuyện chẳng lành quả đã xảy ra. Có tiếng móng guốc gõ nhanh
trên con đường mòn trước mặt. Từ bóng tối lờ mờ bỗng hiện lên hình dáng một con
hươu phi vun vút. Nó nhảy xổ vào mấy chú lùn khiến họ ngã lăn quay, rồi thu
mình lại để nhảy vọt đi. Nó bật lên cao và vọt qua dòng nước bằng một cú nhảy mạnh
mẽ. Nhưng nó không an toàn tới được bờ bên kia. Thorin là người duy nhất giữ được
bình tĩnh và sáng suốt. Ngay khi họ bước chân lên bờ là ông đã giương cung, lắp
tên đề phòng trường hợp bất kỳ kẻ nào ẩn nấp ở đó để canh giữ cái thuyền bất ngờ
xuất hiện. Lúc này ông bắn một phát thật nhanh và chính xác vào con thú đang nhảy
vọt đi. Khi sang tới bờ bên kia, nó bị trượt chân. Bóng tối nuốt chửng lấy nó,
nhưng họ nghe tiếng móng guốc nhanh chóng trở nên ngập ngừng và rồi tắt hẳn.
Tuy vậy, còn chưa kịp la lên để tán dương phát tên
đó, họ đã nghe một tiếng khóc thét hãi hùng vọng đến từ chỗ Bilbo, và đầu óc họ
không còn tơ tưởng gì đến thịt hươu nữa. “Bombur ngã xuống nước rồi! Bombur sắp
chết đuối rồi!” Anh chàng kêu to. Quả đúng là như thế. Bombur vừa mới bước được
một chân lên bờ thì con hươu nọ chồm tới và nhảy vọt qua đầu chú. Chú trượt
chân ngã xuống, đẩy chiếc thuyền ra khỏi bờ, rồi lăn tòm xuống dòng nước đen,
hai bàn tay chú tuột khỏi đám rễ cây nhầy nhụa ở ven bờ, trong khi đó chiếc
thuyền chầm chậm trôi đi rồi mất dạng.
Khi chạy ra bờ suối, họ vẫn còn có thể nhìn thấy cái
mũ trùm của chú bên trên mặt nước. Họ vội quăng một sợi thừng có đầu móc về
phía chú. Chú tóm được cái thừng, và họ kéo chú vào bờ. Chú ướt lướt thướt từ đầu
đến chân, dĩ nhiên rồi, nhưng đó không phải là điều tệ hại nhất. Khi họ đặt chú
lên bờ thì chú đã ngủ rất say, bàn tay chú nắm cái thừng chặt đến nỗi họ không
tài nào gỡ ra được; và mặc họ muốn làm gì thì làm, chú vẫn cứ say sưa ngủ.
Họ đứng túm tụm quanh chú, vừa nguyền rủa vận rủi của
mình và sự vụng về của Bombur vừa than vãn về việc mất cái thuyền khiến họ
không thể quay trở lại tìm con hươu, thì bỗng để ý thấy có tiếng tù và nhè nhẹ
trong rừng và những âm thanh như tiếng chó sủa ở tít xa. Rồi tất cả các âm
thanh đó đều im bặt; và ngay lúc vừa ngồi xuống, họ như nghe thấy tiếng huyên
náo của một cuộc đi săn lớn đang di chuyển về phía Bắc con đường mòn, dù rằng họ
chẳng nhìn thấy dấu vết nào của nó cả.
Họ ngồi đó thật lâu và không dám nhúc nhích. Bombur
vẫn đang say ngủ với một nụ cười trên khuôn mặt béo phị, cứ như thể chú không
còn quan tâm gì đến những rắc rối khiến họ phải bực mình nữa. Bỗng trên con đường
phía trước xuất hiện mấy con hươu trắng, một con hươu cái và vài chú hươu con
trắng như tuyết khác hẳn con hươu đực đen như than trước đó. Chúng chập chờn
trong bóng tối. Thorin còn chưa kịp thét lên thì ba chú lùn đã đứng phắt dậy nhả
tên. Xem ra chẳng mũi tên nào trúng đích. Lũ hươu quay mình biến vào đám cây cối
cũng lặng lẽ như lúc chúng đến vậy, và các chú lùn bắn theo mấy mũi tên nữa nhưng
chẳng ăn thua gì.
“Đừng bắn nữa! Đừng bắn nữa!” Thorin quát to; nhưng
đã quá muộn, mấy chú lùn quá phấn khích kia đã phung phí những mũi tên cuối
cùng, nên lúc này mấy cây cung mà Beorn cho họ đã trở thành vô dụng.
Đêm ấy họ là một đám người rầu rĩ, và nỗi rầu rĩ còn
chồng chất lên họ nặng nề hơn trong những ngày tiếp theo. Họ đã vượt qua dòng
suối bị yểm bùa; nhưng qua nơi ấy rồi, con đường dường như vẫn cứ tiếp tục kéo
dài mãi như trước, và trong khu rừng họ cũng chẳng thấy có gì thay đổi. Tuy vậy,
nếu hiểu biết nhiều hơn về khu rừng và suy ngẫm ý nghĩa của cuộc săn cùng sự xuất
hiện của mấy con hươu trắng trên đường, chắc hẳn họ đã biết cuối cùng họ cũng
đang đến gần bìa rừng phía Đông, và chẳng bao lâu nữa sẽ tới những vùng thưa thớt
cây cối hơn và những nơi lại có ánh mặt trời, nếu như họ còn giữ được lòng can
đảm và niềm hy vọng.
Song họ lại không biết điều này, và họ còn nặng gánh
với cái cơ thể nặng nề của Bombur mà họ phải hết sức cẩn thận vác theo, cắt lượt
nhau cứ mỗi lần bốn người làm cái nhiệm vụ cực nhọc này trong lúc những người
khác chia nhau mang đồ. Nếu trong vài ngày trước đó số đồ này không trở nên quá
nhẹ thì họ đã không thể nào mang nổi; mà một anh chàng Bombur vừa ngủ vừa mỉm
cười đem đổi lấy những bọc đầy đồ ăn dù chúng nặng đến mấy thì cũng là quá rẻ mạt.
Vài ngày sau đã đến lúc thật sự chẳng còn gì để ăn uống nữa. Họ chẳng thấy loại
cây cỏ ăn được nào mọc trong khu rừng, chỉ có nấm và những cây thân thảo có lá
nhợt nhạt và mùi vị khó chịu mà thôi.
Khoảng bốn ngày kể từ khi vượt qua dòng suối bị yểm
bùa, họ tới một nơi mà hầu hết cây cối ở đó đều là sồi. Thoạt đầu họ có vẻ phấn
khởi vì sự thay đổi này, bởi ở đây không có tầng cây thấp và bóng tối không sẫm
lắm. Xung quanh họ là thứ ánh sáng màu lục nhạt, và đôi lúc họ có thể nhìn được
một quãng về phía hai bên đường. Tuy vậy ánh sáng ấy chỉ cho họ thấy những hàng
cây xám xịt thẳng băng kéo dài vô tận giống như những cây cột của một hành lang
đồ sộ nhuốm ánh hoàng hôn. Có hơi thở của khí trời và âm thanh của gió, nhưng
là âm thanh buồn. Vài chiếc lá xào xạc rụng xuống nhắc cho họ biết ngoài kia
mùa thu đang đến. Bàn chân họ làm xáo động đám lá khô nơi thảm lá đỏ sẫm mà biết
bao mùa thu đã rải ở hai bên đường.
Bombur vẫn cứ ngủ và họ bắt đầu cảm thấy rất mệt mỏi.
Thảng hoặc họ nghe thấy những tiếng cười vang lên phá vỡ bầu không khí im lặng.
Đôi lúc cũng có tiếng hát ở đằng xa nữa. Tiếng cười ấy là của những giọng êm
tai chứ không phải của bọn yêu tinh, còn tiếng hát thì hay nhưng nghe có vẻ thần
bí và kỳ lạ, và họ không cảm thấy thư thái mà chỉ muốn tiếp tục đi gấp khỏi khu
vực này bằng chút sức lực còn sót lại.
Hai ngày sau họ thấy con đường bắt đầu dốc xuống, và
chẳng bao lâu sau họ đã ở trong một thung lũng hầu như mọc toàn những cây sồi rất
to.
“Chẳng lẽ cái khu rừng đáng nguyền rủa này chạy dài
vô tận hay sao?” Thorin nói. “Một cậu nào phải trèo lên cây thử xem có thể thò
đầu lên trên vòm lá mà quan sát xung quanh không. Cách duy nhất là chọn cái cây
cao nhất nhô ra ở bên đường ấy.”
Dĩ nhiên “một cậu nào” có nghĩa là Bilbo. Họ chọn anh
chàng, bởi muốn công việc có hiệu quả thì người trèo cây phải nhô đầu vượt lên
trên những cành lá trên ngọn, và vì vậy người đó phải đủ nhẹ để không làm gãy cả
những cành cao nhất và mảnh mai nhất. Anh chàng Baggins tội nghiệp từ trước đến
giờ nào có tập trèo cây gì mấy đâu, nhưng họ cứ nhấc bổng anh chàng lên tới
cành thấp nhất của một cây sồi khổng lồ mọc lấn vào đường, và từ đó anh chàng
phải cố hết sức trèo lên. Anh chàng len lỏi qua đám cành nhỏ rậm rịt, nhiều lần
bị cành cây đập vào mắt; lớp vỏ già ở những cành lớn hơn khiến anh chàng lem luốc
hết cả; vài lần anh chàng trượt chân nhưng đã kịp túm lấy cành cây; và cuối
cùng, sau một hồi vật lộn ghê người tại một đoạn thân dường như chẳng có cành
cây nào thuận tiện cả, anh chàng đã leo tới gần ngọn cây. Suốt khoảng thời gian
đó anh chàng cứ băn khoăn không biết liệu trên cây có nhện không, và liệu mình
sẽ xuống đất bằng cách nào (nếu không phải là ngã xuống).
Cuối cùng anh chàng nhoi đầu lên khỏi mái lá rừng,
và sau đó có thấy lũ nhện thật. Nhưng những con nhện này trông cũng chỉ nhỏ bé
như biết bao con nhện khác, và chúng đang đuổi theo lũ bướm. Bilbo lóa cả mắt
vì ánh sáng. Anh chàng có thể nghe tiếng những chú lùn quát lên với mình từ mãi
tít bên dưới, nhưng lại không thể trả lời mà chỉ bíu thật chặt và hấp háy mắt.
Mặt trời chiếu sáng rực rỡ, và mãi một lúc lâu sau anh chàng mới có thể quen nổi.
Khi đã quen với ánh sáng rồi, anh chàng thấy khắp xung quanh mình là một biển
màu lục thẫm, đây đó xao động bởi làn gió nhẹ; và có hàng trăm con bướm ở khắp mọi
nơi. Tôi cho rằng đó là một loại “hoàng đế đỏ tía”, một loại bướm yêu thích những
ngọn cây sồi, nhưng những con bướm này lại chẳng đỏ tía chút nào, chúng toàn một
màu đen sẫm mượt như nhung mà không có đốm nào cả.
Anh chàng ngắm nhìn những “hoàng đế đen” một lúc
lâu, thụ hưởng cái cảm giác gió nhẹ mơn man trên tóc và ve vuốt mặt mình, nhưng
cuối cùng tiếng kêu của các chú lùn lúc này đang chỉ biết giậm chân vì sốt ruột
ở bên dưới đã nhắc nhở anh chàng quay về với công việc thực sự của mình. Công
việc ấy chẳng có kết quả gì. Cố căng mắt ra mà nhìn khắp bốn bề xung quanh, anh
chàng cũng chẳng thấy điểm tận cùng của cây lá rừng đâu cả. Trước đó lòng đã bớt
ưu phiền vì được thấy mặt trời và cảm giác mơn man của gió, giờ đây anh chàng lại
thấy buồn vô hạn: có trèo xuống dưới kia thì cũng chẳng có gì để mà ăn.
Thực ra, như tôi đã kể với các bạn, lúc đó họ không ở
xa bìa rừng lắm; và nếu Bilbo đủ thông minh để nhận biết điều đó, thì cái cây
mà anh chàng đã trèo, cho dù là rất cao, lại đứng ở gần đáy của một thung lũng
rộng, cho nên từ ngọn cây ấy vẫn thấy cây rừng vươn lên khắp xung quanh giống
như thành của một cái bát khổng lồ, và vì thế anh chàng không thể mong nhìn được
khu rừng trải ra đến đâu. Tuy nhiên anh chàng không biết được điều này nên đã
trèo xuống mà lòng đầy thất vọng. Cuối cùng thì anh chàng cũng lại xuống đến mặt
đất, mình mẩy sây sát, nóng bức, tiều tụy, và chẳng nhìn thấy gì trong bóng tối
lờ mờ. Bản tường thuật của anh chàng chẳng mấy chốc khiến những người khác cũng
buồn khổ không kém.
“Cả cánh rừng cứ tiếp tục trải dài vô tận về mọi hướng!
Chúng ta sẽ làm gì đây? Mà việc gửi theo một anh chàng hobbit thì được tích sự
gì chứ!” họ kêu lên, cứ làm như đó là lỗi của anh chàng không bằng. Họ chẳng
quan tâm gì đến bầy bươm bướm, và chỉ càng giận dữ hơn khi nghe kể về làn gió
mát, vì họ quá nặng không thể trèo lên cao để mà cảm nhận được.
Đêm hôm ấy họ ăn những mẩu đồ ăn cuối cùng; và sáng
hôm sau, khi ngủ dậy, điều đầu tiên họ nhận ra là mình vẫn đói cồn cào, và điều
tiếp theo là trời đang mưa đây đó trên mặt đất những hạt mưa nặng nề nhỏ xuống.
Thực tế đó chỉ gợi cho họ nhớ rằng mình đang khát khô cổ, chứ chẳng khiến cơn
khát của họ dịu đi chút nào: người ta không thể làm dịu một cơn khát khủng khiếp
bằng cách đứng dưới những cây sồi khổng lồ và chờ đợi một giọt nước tình cờ rơi
xuống lưỡi mình. Chút an ủi nhỏ nhoi duy nhất lại bất ngờ đến từ Bombur.
Chú ta đột nhiên tỉnh giấc và vừa ngồi dậy vừa gãi đầu
gãi tai. Chú không hiểu mình đang ở đâu, và cũng chẳng biết vì sao mình cảm thấy
đói bụng đến thế; bởi chú đã quên tất cả mọi chuyện xảy ra kể từ khi họ bắt đầu
chuyến đi vào cái buổi sáng tháng Năm cách đó đã lâu ấy. Điều cuối cùng mà chú
còn nhớ là bữa tiệc tại nhà anh chàng hobbit, và họ phải rất khó khăn mới làm
chú tin câu chuyện về tất cả những cuộc mạo hiểm mà họ đã trải qua từ ngày ấy.