Đại Đường Song Long Truyện - Chương 229

Hồi 229: Chiến Tất Công Thành

Cư dân Lương Đô bất luận nam nữ lão thiếu đều được động viên, tất cả  cùng cố gắng để bảo vệ nhà cửa của chính mình. 
Khấu Trọng và Từ Tử Lăng hiện nay đều là nhân vật anh hùng danh  mãn thiên hạ, chẳng những chiến tích lẫy lừng, xưa nay vô địch, hơn  nữa bọn gã lại là những kẻ xuất thân bần hàn nơi đầu đường xó chợ nên hình  tượng so với những cựu thần cao môn đại phiệt của cựu triều hay những bá chủ  kiêu hùng trong hắc đạo thì càng thu hút được nhân tâm hơn, thế nên các nhân  vật võ lâm ở vùng phụ cận, những tráng đinh có chí khí ở các thôn làng xung  quanh cũng lần lượt đến gia nhập. 
Vô ý trồng liễu, liễu đơm xanh, lần đầu tiên công khai tụ nghĩa trên con  đường tranh bá thiên hạ của Khấu Trọng, đã phát sinh một cách đột nhiên như  vậy. 
Trong bất kỳ hoàn cảnh nào, Từ Tử Lăng cũng không trực tiếp nhúng tay  vào đại nghiệp tranh bá thiên hạ của Khấu Trọng, nhưng lần này vì thương xót  chư dân trong thành, đồng thời cũng vì mối thù với Vũ Văn Hóa Cập, nên gã mới  đành phải mua dây buộc mình, nhận trách nhiệm huấn luyện quân binh, tổ chức  đội ngũ. 
Khấu Trọng thì vừa dựa vào thiên thư do Lỗ Diệu Tử truyền cho, vừa mô  phỏng kết cấu hành chính vốn có của Lương Đô, tận hết khả năng vận dụng  những tài nguyên có hạn một cách tốt nhất. 
Đại quân của Vũ Văn Hóa Cập ước chừng hai vạn, nhưng lại hành động  chậm chạp, dọc đường lại không ngừng cướp bóc lương thảo, cưỡng bức tráng  đinh nhập ngũ, giống như bầy châu chấu đi tới đâu là tàn hại tới đó, làm cho dân  chúng ở xung quanh đều chạy cả về Lương Đô lánh nạn, khiến gánh nặng trên  vai Khấu Trọng đã nặng lại càng thêm nặng. 
Ngày hôm nay, hai gã khó khăn lắm mới tìm được thời gian cùng ngồi trong  một gian phòng của tửu quán Phúc Sinh giữa phố Nam Bác nối liền hai cửa thành  Nam, Bắc, thương nghị chuyện phòng thủ Lương Đô. 
Những khách nhân trong quán đã quen với chuyện này, vì hai gã bình dị dễ  gần, không thích ở trong phủ tổng quản, mà chỉ ưa đến những chỗ bình dân cùng  uống rượu bát lớn, ăn miếng lớn, lúc nói chuyện cũng thường hay chửi vài câu thô lỗ. 
Khấu Trọng thấp giọng nói: “Hiện giờ mười bốn thành trấn, hai trăm mấy  thông làng phụ cận Lương Đô, đều đã dốc hết khả năng tương trợ chúng ta, thế  nên lương thảo được nhiều hơn dự tính một ít, tạm thời có thể bớt lo được một  chút”. 
Từ Tử Lăng chau mày: “Trước đây Lương Đô lấy lương thực ở đâu?”. 
Khấu Trọng đáp: “Chính là từ những thôn trấn này, chỉ hận một điều là bọn  cẩu tặc Khiết Đan đó đi khắp nơi giết người phóng hoả, làm đồng ruộng tiêu điều,  chưa thể cung ứng đầy đủ như trước. Muốn mua lương thực hả? Thượng du thì  Vương Thế Sung đại chiến Lý Mật, hạ du thì lão gia và Trầm Pháp Hưng đánh Lý  Tử Thông, giao thông đường thủy đã đoạn tuyệt hết cả rồi. Hà! Lăng thiếu gia của  ta ơi, thật không ngờ ngươi cũng có ngày hôm nay, phải lo củi lo gạo cho cả mười  vạn người một lúc! Trước đây ngươi khuyên ta không nên đi tranh thiên hạ với  người ta, quả đúng là sáng suốt, sáng suốt mà!”. 
Từ Tử Lăng cả cười cũng không cười nổi, lại hỏi tiếp: “Hiện giờ lương thực  của chúng ta đủ cho bao nhiêu ngày?”. 
Khấu Trọng nói: “Theo tên tiểu tử Trần Gia Phong kia tính toán thì nếu tên  tặc chủng Vũ Văn Hóa Cốt giữ nguyên tốc độ tiến quân như thế này, ba ngày sau  sẽ đến vây thành, đoạn tuyệt mọi giao thông thủy lục, 
Dù là bọn ta có tiết kiệm hết mức, cũng chỉ chống đỡ được mười ngày. 
Từ Tử Lăng biến sắc nói: “Vậy chẳng phải hỏng bét sao, Vũ Văn Hóa Cốt là  loại sài lang hổ báo, tât sẽ thừa cơ cướp bóc khắp nơi, nên chuyện lương thực có  lẽ hắn không phải lo lắng, còn chúng ta thì lại bị khốn trong toàn cô thành này  chờ chết đói”. 
Khấu Trọng cười khổ: “Hiện giờ coi như chúng ta có khoảng mấy ngàn người,  nhưng có thể phái xuất ra quần nhau với quân địch chỉ sợ không quá hai mươi  người, có thể tự lo binh khí quân trang cũng chỉ có gần ngàn người, chiến mã thì  thiếu đến mức đáng thương, tính cả ngựa già gầy yếu cũng chỉ được gần trăm con.  Người ta nói binh quý hồ tinh bất quý hồ đa, nhưng có thể gọi là tinh binh ở đây, e  là chỉ có hai tên ngốc là ta với ngươi mà thôi. Lần này không phải là hỏng bét, mà  là cực kỳ hỏng bét mới đúng”. 
Từ Tử Lăng quả quyết nói: “Thủ thành chỉ có con đường chết, chi bằng  chúng ta liều bà nó một phen, phục kích Vũ Văn Hóa Cốt trên đường, như vậy  còn hơn là ngồi đây đợi chết”. 
Khấu Trọng lắc đầu: “Vũ Văn Hóa Cốt hành quân chậm như vậy, lại không  đi đường thủy cho nhanh mà đi đường bộ, chính là để đề phòng chúng ta phục  kích giữa đường, thế nên kế này vạn lần không thể được. Ngươi nói xem, mấy  ngàn người xuất động như vậy, có thể thoát khỏi tai mắt của thám tử của Vũ Văn  phiệt hay không? Hiện giờ chỉ có thể chờ xem Lý Tử Thông phản ứng thế nào  thôi”. 
Lúc này một đầu lĩnh thân binh của Khấu Trọng tên Vinh Thăng chạy tới  báo cáo: “Có một người tự xưng Tuyên Vĩnh muốn gặp hai vị đại gia”. 
Hai gã cả mừng, vội vàng bảo Vinh Thắng mời Tuyên Vĩnh vào. Chỉ lát sau  Tuyên Vĩnh người đầy bụi bặm đã bước vào, ba người gặp nhau, tự nhiên là vui  mừng khôn tả. 
Khấu Trọng nói: “Tuyên huynh đến thật đúng lúc”. 
Tuyên Vĩnh cũng hân hoan nói; “Việc các vị dùng một tòa thành không và  mấy tên nạn binh đánh bại mã tặc Khiết Đan đã truyền khắp cả phương Bắc này  rồi”. 
Từ Tử Lăng ngạc nhiên: “Mới chưa đầy bảy, tám ngày mà, tin tức truyền đi  nhanh vậy sao?”. 
Tuyên Vĩnh nói: “Phàm là chuyện xảy ra ở phụ cận Nam Bắc thủy đạo đều  được truyền đi rất nhanh, do giao thông đường thủy rất thuận tiện. Khi tại hạ biết  được tin tức Vũ Văn Hóa Cập phát binh tấn công Lương Đô, thì liền đoán ngay ra  chuyện không hay, nên đã lập tức kiêm trình tới đây”. 
Khấu Trọng đột nhiên đứng vụt người dậy, ôm quyền nói với các thực khách  trong tửu điếm: “Các vị hương thân huynh đệ, tiểu đệ có chuyện cần phải thương  lượng, các vị đại ca đại thúc có thể ăn nhanh rồi rời khỏi đây không?”. 
Chúng nhân nghe gã nói vậy, không ai là không cam tâm tình nguyện, vui  vẻ rời khỏi tửu điếm. 
Khi Khấu Trọng ngồi xuống, trong điếm chỉ còn lại mình ba người, cả chủ  quán và mấy tên tiểu nhị giúp việc cũng lánh cả xuống bếp. 
Từ Tử Lăng nói: “Tuyên huynh có biết tình hình chúng ta hiện nay thế nào  không?”. 
Tuyên Vĩnh chậm rãi đáp: “Một là thiếu lương, hai là không có binh mã, ba là  cô lập không có ngoại viện, tại hạ nói có sai không?”. 
Khấu Trọng ngạc nhiên thốt: “Nhìn bộ dạng của huynh như đến để giải quyết ba vấn đề khó này cho chúng ta vậy, đừng có gạt ta đấy nhé”. 
Tuyên Vĩnh nói: “Lương thực thì nơi đâu cũng thiếu, nên không ai có cách cả.  Có điều ba vấn đề khó này, tất cả đều do một mình Vũ Văn Hóa Cập cả, bởi vậy  chỉ cần đuổi hắn đi, tất cả vấn đề sẽ có thể giải quyết dễ dàng”. 
Khấu Trọng cười cười nói: “Lời này của Tuyên tổng quản rất có kiến giải,  khiến ta lập tức cảm thấy quy về một mối, tất cả chỉ còn lại một vấn đề Vũ Văn  Hóa Cốt thôi”. 
Tuyên Vĩnh ngạc nhiên: “Cái gì mà Tuyên tổng quản?”. 
Từ Tử Lăng ngồi bên cũng phải phì cười. 
Khấu Trọng nói: “Đương nhiên là đại tổng quản của Lương Đô và Bành  Thành rồi, cho dù giết được Vũ Văn Hóa Cốt, đống bừa bộn này cũng cần một  nhân vật thiên tài và đầy kinh nghiệm trong việc thủ thành và thống lĩnh ba quân  như Tuyên đại tổng quản đây quản trị. Nhân lúc này Lý Tử Thông vô lực tiến lên  phía Bắc, Lâm Sĩ Hồng, Lý Mật tự lo cho mình còn không xong, ta nhờ huynh xây  dựng đây thành một kiên thành không thể phá vỡ, cắt đoạn con đường Nam hạ  Bắc tiến. Hà hà... đây đúng là trời đã giúp ta rồi!”. 
Tuyên Vĩnh ngây người ra giây lát rồi nói: “Chuyện này phải thỉnh thị ý kiến  của tiểu thư mới được”. 
Khấu Trọng vỗ ngực nói: “Về phía đại tiểu thư để ta ứng phó, tại sao nàng ta  không đến vậy?”. 
Tuyên Vĩnh đáp: “Đồ đại thúc và tại hạ đã hiệu triệu được một số binh tướng  Ngõa Cương, nhân số ước chừng hai ngàn người, nhưng đang thiếu nơi đóng  quân. Tiểu thư nghe tin hai vị đã lấy được Lương Đô, nên lập tức ra lệnh cho tại  hạ đến đây đầu nhập, hiện ngờ tất cả đang tạm thời hạ trại ở trong khu rừng rậm  cách Lương Đô ba mươi dặm về hướng Bắc”. 
Khấu Trọng cả mừng: “Lần này được cứu rồi!”. 

o0o 
Đại quân của Vũ Văn Hóa Cập càng lúc càng đến gần, Khấu Trọng và Từ  Tử Lăng cũng càng lúc càng bận rộn với công việc chuẩn bị thủ thành. 
Sáng sớm hôm nay, hai gã cùng thúc ngựa xuất thành, kiểm tra các công sự phòng ngự xây dựng bên ngoài thành, rồi lên một đỉnh đồi có thể nhìn khắp bình  nguyên phía Bắc. 
Kênh Thông Tế cuồn cuộn chảy bên trái hai gã, nhưng không thấy một  bóng thuyền bè. 
Khấu Trọng nói như ngâm nga: “Chiến tất công thành, vì thành không chỉ là  yếu điểm chiến lực có quan hệ tới toàn cục, còn có tác dụng khống chế giao  thông và kinh tế của cả một vùng rộng lớn, là điểm mấu chốt và mệnh căn của  toàn bộ chiến cục, thực là... hắc hắc... đợi chút đã”. 
Từ Tử Lăng ngạc nhiên nhìn qua, chỉ thấy Khấu Trọng dùng thủ pháp nhanh  như điện móc quyển binh thư của Lỗ Diệu Tử để trong ngực ra, lật lật mấy trang  rồi mới tiếp tục nói: “Hắc! Thành trì là nơi binh gia tranh giành, tỷ như thành trì có  tính chiến lược lớn như là Lương Đô này vậy, ai nắm được trong tay thì sẽ khống  chế được kênh Thông Tế. Hà hà! Ta nói vậy có hơi ra vẻ một chút không?”. 
Từ Tử Lăng bật cười: “Ngươi không cần thuyết phục ta, ta cũng sẽ tận tâm  tận lực quyết đánh với Vũ Văn Hóa Cập đến cùng”. 
Khấu Trọng làm bộ nghiêm chỉnh nói: “Ta chỉ muốn mượn ngươi để luyện  tập thôi, muốn thuyết phục người khác thì phải bổ sung chất lượng cho bản thân  đã. Khi xem chương “Chiến Tất Công Thành” trong binh thư của Lỗ Diệu Tử để lại,  không hiểu vì sao mà ta lại nghĩ đến một tòa thành khác, đó có thể là một điểm  quan trọng trên con đường tranh bá đồ vương của ta. Ngươi thử đoán xem thành  trì mà ta nghĩ đến là thành trì nào vậy?”. 
Từ Tử Lăng ngước nhìn vầng thái dương mới ló dạng đằng Đông, cất giọng  đều đều hỏi: “Có phải Tương Dương không?”. 
Khấu Trọng giật mình thốt: “Làm sao mà ngươi đoán ra được thế?”. 
Từ Tử Lăng nói: “Có gì khó đâu chứ, muốn tiến quân vào Lạc Dương hay  Quan Trung, phía Đông có Giang Đô, Lương Đô, phía Tây có Cảnh Lăng, Tương  Dương. Trong hai thành lớn ở phía Tây, Tương Dương có ý nghĩa chiến lược hơn,  bằng không Lý Mật cũng đâu cần đích thân đi tìm Tiền Độc Quan cho vất vả”. 
Khấu Trọng gật đầu: “Nói hay lắm, ở sách “Địa Thế” của Lỗ Diệu Tử có một  chương chuyên luận về những nơi binh gia trong thiên hạ phải tranh giành, Tương  Dương cũng có tên trên kim bảng”. 
Từ Tử Lăng hỏi: “Lỗ tiên sinh nói thế nào?”. 
Khấu Trọng đọc liền một mạch như đếm đồ gia bảo trong nhà: “Tương  Dương phía Tây tiếp giáp Ba Thục, phía Nam khống chế Tương Sở, phía Bắc nối liền Hà Lạc, vì thế mỗi khi có chiến sự, đều khói lửa liên miên. Thời Tam Quốc,  Nguỵ, Thục, Ngô đều muốn giành lấy thành này, Quan Vũ cũng chết ở nơi đây.  Về sau, Tây Tấn phạt Ngô, Đông Tấn Bắc phạt, đều lấy Tương Dương làm cơ địa.  Vì vậy kết luận của Lỗ tiên sinh là lục triều có thể giữ được Giang Tả, tất cả đều  nhờ có cường binh trấn ở giữa Hoài Nam và Kinh Dương”. 
Từ Tử Lăng không khỏi nhớ đến câu tán thưởng của Chúc Ngọc Nghiên  dành cho Lỗ Diệu Tử. Luận điểm của lão đối với thành Tương Dương, quả thật vô  cùng đặc sắc và có kiến giải. 
Tương Dương tuy không phải là thành lớn như Lạc Dương, nhưng vì nó nằm  ở trung du Hán Thủy, là chỗ xung yếu của giao thông bốn tỉnh Ngạc, Dự, Xuyên,  Thiểm. Nếu muốn từ Trung Nguyên Nam hạ, hoặc từ Quan Trung tiến vào đồng  bằng Giang Hán, đều không thể không lấy Tương Dương trước. 
Khấu Trọng chí tại Tương Dương, thực ra là ngầm có ý sau này sẽ quyết  chiến với Lý Thế Dân. Dù là Lý Thế Dân có công hạ được Lạc Dương, vẫn còn  phải thông qua cửa ải Tương Dương này mới xong. 
Bất luận là Tương Dương hay Lương Đô, đều không phải trung tâm kinh tế  chính trị, nhưng về chiến lược thì lại có ảnh hưởng tới thành bại của toàn cục. 
Từ Tử Lăng nói: “Muốn lấy Tương Dương, trước tiên phải lấy Cảnh Lăng đã,  đó không phải chuyện dễ đâu”. 
Khấu Trọng vui vẻ nói: “Điểm hấp dẫn nhất của trò chơi tranh bá này chính  là cực kỳ khó khăn mà”. 
Từ Tử Lăng tỏ vẻ không vui nói: “Lẽ nào ngươi coi chuyện công hạ thành trì  tàn khốc đó là một trò chơi sao?”. 
Khấu Trọng cười khổ: “Đừng trở mặt nói nghiêm trọng như vậy được không?  Coi như ta cầu xin ngươi đi! Đối với ta mà nói, sinh mệnh cũng chỉ là một trò chơi  mà thôi. Trách nhiệm của ta chính là phải tìm cách làm cho trò chơi này càng có ý  nghĩa và hứng thú. Đây đơn thuần chỉ là cách nhìn từ một góc độ siêu nhiên mà  thôi, cũng giống như Sư Phi Huyên cho rằng tất của mọi thứ của nhân gian đều là  hư ảo và không có ý nghĩa vĩnh hằng gì hết vậy”. 
Gã ngưng lại một chút rồi lại hưng phấn nói tiếp: “Lăng thiếu gia ngươi thử  nghĩ mà xem, ở trên vùng đất Trung Nguyên rộng lớn này của chúng ta, có vô số  thành thị lớn nhỏ khác nhau, do vị trí địa lý khác nhau mà có tính quan trọng và ý  nghĩa khác nhau, thật không khác gì một bàn cờ cả, còn người và quân đội chính  là những quân cờ. Như vậy, chiến tranh chẳng phải là một trò chơi còn gì? Tất cả các trận chiến, đều lấy phá thành và thủ thành để làm trung tâm cả, vậy không  giống như đang chơi cờ hay sao?”. 
Từ Tử Lăng trầm ngâm một lúc rồi gật đầu: “Nhận định của ngươi đối với  việc tranh thiên hạ đã sâu sắc hơn trước đây rất nhiều”. 
Khấu Trọng quay đầu lại nhìn về phía Lương Đô, thở dài một tiếng nói: “Ta  đã mất đi Cảnh Lăng, giờ không thể mất thêm Lương Đô nữa! Nếu như lương thảo  chúng ta đầy đủ, thì sẽ có thể cố thủ trong thành, giữ chân địch nhân bên ngoài  đến khi lương thảo cạn kiệt, mới nhất cử tiêu diệt bằng sạch. Nhưng hiện giờ  đương nhiên là không thể dùng sách lược này, thế nên chỉ có thể dùng kế, lợi  dụng nhược điểm không dám kéo dài trận chiến của Vũ Văn Hóa Cốt để đánh bại  hắn”. 
Từ Tử Lăng khẽ lắc đầu: “Đến giờ thì ai ai cũng đã biết Lương Đô đang thiếu  thốn lương thực, Vũ Văn Hóa Cốt cố ý hành quân thật chậm, chính là muốn dồn  dân ở các thôn trấn xung quanh về cả Lương Đô, khiến lương thực của chúng ta  đã thiếu nay lại càng thiếu hơn. Nhiều thì không nói, nhưng nhẫn nại tám ngày,  mười ngày thì chắc hắn sẽ làm được”. 
Khấu Trọng vỗ đùi reo lên: “Ngươi nói đúng lắm! Vì vậy kế đầu tiên phải lừa  gạt, không chỉ lừa Vũ Văn Hóa Cốt, mà còn phải lừa cả quân dân toàn thành nữa”. 
Từ Tử Lăng động dung nói: “Đằng nào cũng đã lừa bịp rồi, chi bằng nói luôn  là Lý Tử Thông chẳng những chịu cho mượn lương, còn đồng ý cho mượn quân  nữa. Trong mười ngày quân tiếp viện và lương thảo sẽ đến Lương Đô, chỉ cần tin  tức này lọt vào tai Vũ Văn Hóa Cốt, đảm bảo hắn sẽ lập tức hành quân, đồng thời  nông nóng công thành, đó chính là cơ hội cho chúng ta lợi dụng”. 
Khấu Trọng kẹp chân vào hông ngựa, ngoảnh đầu lại nói: “Chúng ta lập tức  phái người đi chặn đường Nhậm Mi Mi đang ở phía Bắc trở về. Tin tức này nên để  nàng ta truyền đi là tốt nhất”. 

o0o 
Hoàng hôn ngày hôm ấy, Nhậm Mi Mi ngồi thuyền trở về Lương Đô, trên  thuyền còn có hơn mười xe lương thảo, nói là đợt lương thực đầu tiên mượn được  sau khi kết liên minh với Lý Tử Thông. 
Trên đường về phủ tổng quản, một xe còn “vô tình” bị đổ, làm gạo mì bên trong đổ cả ra đường. 
Khấu Trọng và Từ Tử Lăng đích thân ra cửa thành nghênh tiếp, hộ tống hai  bên tả hữu đưa vị “công thần” vào thành. Trong thành người dân đứng chật cả hai  bên đường để hoan hô, thậm chí còn có người còn thắp nhang khấn bái, hô vang  vạn tuế. 
Sau khi vào đến phủ tổng quản, gương mặt tươi cười như hoa của Nhậm Mi  Mi lập tức trở nên lạnh lùng như gỗâ đá, nghiến răng kèn kẹt nói: “Tên cẩu tạp  chủng Lý Tử Thông này đáng bị Đỗ Phục Uy tiêu diệt lắm, chẳng những không  chịu giúp đỡ chúng ta, lại còn ném đá xuống giếng, cắt đoạn đường thủy xuống  hạ du, lại còn nói những lời bỉ ổi không thể nào chịu được, thật là tức chết đi thôi!”. 
Khấu Trọng cười cười nói: “Nhậm đại tỷ cần gì phải tính toán với hạng tiểu  nhân ấy chứ, đợi chúng ta thu thập tên tặc nhân Vũ Văn Hóa Cập rồi, rồi xử trí  hắn cũng không muộn”. Nói đoạn gã quay sang bảo Từ Tử Lăng: “Màn kịch vừa  rồi đủ chân thực chưa?”. 
Từ Tử Lăng hài lòng nói: “Nếu không phải ta đã biết nội tình, nhất định cũng  sẽ bị gạt đó”. 
Ba người vào đại sảnh đường ngồi xuống. 
Nhậm Mi Mi vẫn còn chưa hết tức giận, lớn tiếng mắng: “Tên cẩu tạp chủng  đó không những kiêu ngạo tự đại, bắt ta chờ không ba ngày, cuối cùng chỉ phái  một tên thái giám ra bảo với ta là hắn không rảnh, muốn gặp thì phải đợi thêm  mười ngày nữa. Thử hỏi vậy có tức không?”. 
Khấu Trọng ngạc nhiên nói: “Không phải vừa rồi Nhậm đại tỷ có kể hắn ăn  nói rất khó nghe hay sao? Không gặp được hắn, đại tỷ làm sao nghe được hắn  nói gì chứ?”. 
Nhậm Mi Mi trợn tròn mắt lên nói: “Tuy ta không gặp hắn, nhưng tên thái  giám kia chuyển lời thay, nói nếu ta chịu bồi tiếp hắn, thì năm ngày sau có thể  triệu ta vào cung hầu hạ”. 
Song mục Khấu Trọng thoáng hiện sát cơ, thần tình lại trầm tĩnh một cách  bất ngờ, chỉ gật đầu chậm rãi nói: “Lý Tử Thông cố ý làm nhục chúng ta. Được  lắm! Hắn đã muốn ném đá xuống giếng, vậy thì đừng trách ta lạt thủ vô tình”. 
Từ Tử Lăng im lặng không nói gì. 
Kế đó Nhậm Mi Mi lại đem tình thế Giang Đô thuật lại tận tường cho hai gã  nghe, sau đó nói: “Giờ Đỗ Phục Uy đang đóng quân ở phía Đông Đơn Dương,  cách Giang Đô chỉ hai mươi dặm, cùng hô ứng với đại quân đóng ở phía Bắc Tỳ Lăng của Trầm Luân, nhi tử của Trầm Pháp Hưng, trước sau đã ba lần tấn công  Giang Đô, song phương đều có tử thương, nhưng Lý Tử Thông đã rơi vào thế hạ  phong rõ rệt. Tỳ Lăng vốn là của Lý Tử Thông, tháng trước mới bị Trầm Luân  công hãm, làm Lý Tử Thông mất hết những quận huyện phía Nam Giang Đô”. 
Khấu Trọng hỏi: “Vậy trong tay Lý Tử Thông còn gì mà dám coi thường  chúng ta như vậy?”. 
Nhậm Mi Mi đáp: “Không ngoài hơn mười thành quận ở phía Bắc Giang Đô,  trong đó Đông Hải Quận ở ven biển Đông Bắc và Chung Li Quận ở Hoài Thủy là  quan trọng nhất. Đông Hải Quận là quê nhà đồng thời cũng là căn cứ địa phòng  thủ của tên cẩu tạp trủng, Chung Li Quận là đầu mối giao thông quan trọng nối  liền đường giao thông vào lục địa của hắn. Bất cứ nơi nào trong hai nơi này mà bị  công hãm, đều sẽ giáng một đòn trí mạng vào y”. 
Khấu Trọng cười lên ha hả nói: “Ta còn tưởng rằng hắn đao thương bất nhập,  không có sơ hở và nhược điểm gì chứ? Thì ra là vậy, để sau chuyện này chúng ta  sẽ tìm hắn tính sổ. Lần này vất vả cho Nhậm đại tỷ rồi! Mời vào nội đường nghỉ  ngơi cho lại sức”. 
Sau khi Nhậm Mi Mi đi, Khấu Trọng mới chau mày nói: “Ngươi có thấy  chuyện này kỳ quái không? Ta còn tưởng rằng do quan hệ với Tống Kim Cương,  chúng ta lại giúp hắn kềm chế Vũ Văn Hóa Cập, tên tiểu tử tử Lý Tử Thông đó  phải cảm kích đến rơi lệ mới đúng, không ngờ y lại đối đãi với sứ tiết của chúng ta  bất nhã như vậy”. 
Từ Tử Lăng nói: “Với hắn thì có chuyện gì lợi hơn là chúng ta với Vũ Văn  Hóa Cốt đánh nhau đến lưỡng bại câu thương đâu? Lúc ấy hắn chỉ cần phái ra  vài ngàn binh tướng là coi như đã nắm được Lương Đô trong tay rồi”. 
Khấu Trọng trầm tư suy nghĩ, một lúc lâu sau mới nói: “Theo ta thì sự tình  không đơn giản như vậy đâu, hiện giờ chuyện hắn lo nhất vẫn là làm sao giải  quyết được vấn đề Giang Đô bị vây hãm, vì vậy bất cứ hành động nào cũng phải  đạt đến mục đích quân sự trước. Thử nghĩ mà xem, giả như Vũ Văn Hóa Cốt đoạt  được Lương Đô, đối với hắn có lợi gì chứ?”. 
Từ Tử Lăng động dung kêu lên: “Ta hiểu rồi, hắn muốn dồn quân đội đóng ở  mấy thành trì phía Bắc Giang Đô để ứng phó với liên quân của lão gia và Trầm  Pháp Hưng, còn Vũ Văn Hóa Cốt thì vì bị Đậu Kiến Đức uy hiếp, căn bản không  có khả năng mở rộng xâm lược. Lúc ấy chỉ cần hắn đẩy lui được lão gia và Trầm  Luân thì có thể đi đường sông lên phía Bắc, đoạt lại Lương Đô trong tay Vũ Văn  Hóa Cốt”. 
Khấu Trọng nở ra một nụ cười nói: “Nhất định là như vậy, vì thế hắn mới  muốn chúng ta lưỡng bại câu thương, càng thương càng tốt! Cái này có phải  người nghèo chí không nghèo không? Hay phải gọi là chết đến nơi rồi mà vẫn  còn tham hả?”. 
Từ Tử Lăng cười cười: “Không phải ngươi cũng vậy sao?”. 
Khấu Trọng đứng phắt dậy, hiên ngang nói: “Ta làm sao giống hắn chứ?  Thắng lợi đã nằm trong tay ta rồi. Chuyện cần làm bây giờ là mài Tỉnh Trung  Nguyệt cho sắc để chặt cái đầu chó của Vũ Văn Hóa Cốt xuống, đem đến trước  mộ phần của mẹ. Bao nhiêu năm nay, không phải chúng ta chỉ đợi có ngày này  thôi sao?”.