Đại Đường Song Long Truyện - Chương 699
Nam Bắc Chi Tranh
Lai giả bất thiện, thiện giả bất lai.
Từ Tử Lăng quay sang Âm Hiển Hạc thấp giọng: “Bốn người.”
Cửa phòng và hai cửa sổ đồng thời vỡ nát.
Âm Hiển Hạc rút trường kiếm khỏi vỏ, như con báo vọt bắn ra, đón đầu địch nhân phá cửa vào.
Từ
Tử Lăng nhìn tựa như thong dong đứng dậy khỏi ghế, hai tay phất ra, Bảo
Bình kình khí tập trung cao độ nóng bức đập thẳng vào hai địch nhân
định lao qua cửa sổ.
Người đến toàn thân vận kình trang, đầu trùm vải đen, chỉ để lộ mũi và mắt, nhưng làm sao có thể che giấu được Từ Tử Lăng.
Kẻ
tấn công qua cửa chính đích thị “Đại Tôn” của Đại Minh Tôn giáo Hứa
Khai Sơn. Kẻ lao qua hai song cửa là Đoàn Ngọc Thành và Tân Na Á, kẻ duy
nhất không đoán được là kẻ giấu mặt ở phòng bên, võ công của người đó
chẳng kém Hứa Khai Sơn.
Chính diện xung
đột với Thạch Chi Hiên đã khiến cho Đại Minh Tôn giáo hao binh tổn
tướng, nguyên khí bị thương trầm trọng, nhưng mấy kẻ đến đây không ai
không phải là cao thủ đã trải qua khảo nghiệm rạch ròi, tuyệt không thể
khinh suất.
Đến bây giờ, gã mới minh bạch
kẻ Mỹ Diễm phu nhân muốn chạy trốn là Đại Minh Tôn giáo. Ngũ Sắc thạch ả
mang theo từ Tái ngoại là vật đã theo Quang Minh sứ giả Lạp Ma từ Ba Tư
sang đông vào đại thảo nguyên, kiến lập Đại Minh Tôn giáo. Ngũ Sắc
thạch là thánh vật chí cao vô thượng của Đại Minh Tôn giáo, cho nên bọn
Hứa Khai Sơn tuyệt không cho phép để lọt vào tay người ngoài.
Tiếng
hừ lạnh và tiếng quát khẽ đồng thời vang lên, Đoàn Ngọc Thành cùng Tân
Na Á còn chưa có cơ hội vượt qua song đã bị Bảo Bình chân khí mãnh liệt
cứng cỏi quật loạng choạng thoái về.
Từ Tử
Lăng kinh nghiệm thực chiến phong phú làm sao, nào chịu để địch nhân
bình tỉnh đánh dai, huống hồ địch nhân phòng kế bên cao thâm khó lường,
Hứa Khai Sơn còn là cao thủ cấp bậc gần bằng Thạch Chi Hiên, vọt liền ra
trước.
Tiếng kình khí giao kích liên miên
bất tuyệt, quang cảnh trong nháy mắt, Âm Hiển Hạc đã sử hết công lực
vốn có mà vẫn bị Hứa Khai Sơn dồn ép, bức thoái liên hồi, đã về lại giữa
phòng.
Từ Tử Lăng quát khẽ một tiếng,
phóng qua kề vai Âm Hiển Hạc, không khí tiền phương như biến thành đậm
đặc, đổi lại là Từ Tử Lăng lúc giao thủ với Hứa Khai Sơn ở U Lâm Tiểu
Trúc, tất sẽ hữu lực mà khó thi triển như Âm Hiển Hạc, hiện giờ lại nắm
chắc một hai, nhất chỉ điểm ra, nhắm song chưởng đang vùn vụt đập tới
của Hứa Khai Sơn.
“Tường phải!”
Âm
Hiển Hạc hội ý, lúc trường kiếm túa thành đóa đóa kiếm hoa, mặt tường
bên phải vỡ tan, địch nhân thần bí còn chưa hiện thân đã phá vách mà
sang, hày khí buốt giá xộc ra từ trường kiếm trên tay như làn chớp đâm
thẳng tới, tàn độc hung mãnh vô cùng.
Đoàn
Ngọc Thành cùng Tân Na Á đã chấn chỉnh lại tay chân, lại vọt qua song
cửa mà vào, khiến hình thế phe họ Từ và Họ âm càng thêm nguy cấp.
“Hừ”
một tiếng, Từ Tử Lăng tập trung cao độ, chỉ kình xuyên qua bức tường
khí hình thành từ song chưởng của Hứa Khai Sơn, đâm thẳng lên người Hứa
Khai Sơn. Bên dưới tung một cước, đá vụt vào chỗ yếu hại nơi bụng dưới
của Hứa Khai Sơn. Hai chiêu này thần tốc hùng dũng, đến Hứa Khai Sơn
cũng không thể không thoái lùi ra sau.
“Keng!”
Âm
Hiển Hạc đánh trúng kiếm địch, phát ra tiếng ngân rền vang, nhưng hắn
hiển nhiên kém nội kình hơn đối phương một bậc, không trụ được lực, bật
ngược về phía sau Từ Tử Lăng.
Từ Tử Lăng
bỏ qua Hứa Khai Sơn, thi triển bản lĩnh nghịch chuyển chân khí cứng cỏi
chuyển công thế sang địch nhân đáng sợ từ phòng bên cạnh phá tường đánh
qua, cười khà khà thốt: “Liệt Hà huynh không phải đi cùng mọi người đến
Cao Lệ sao?”
Địch nhân mình trùm đen thui
nghe tiếng rúng động, kiếm thế hơi chậm lại, mũi kiếm bị một chỉ của họ
Từ điểm trúng, thoái lùi về sau như bị sét đánh.
Đoản kiếm của Tân Na Á, trường kiếm của Đoàn Ngọc Thành hợp thành công thế bài sơn đảo hải quật về phía hai người.
Từ Tử Lăng nào dám luyến chiến, thò tay nắm lấy Âm Hiển Hạc còn đang thoái lùi, vọt thẳng lên trên, phá mái nhà phóng đi.
o0o
Khấu Trọng hỏi: “Bài thơ mào đầu mà
Phiệt chủ làm tất có thể khiến cho bất cứ một nữ tử nào cũng nghiêng
ngã, tiểu tử thiếu sót bản lĩnh trên phương diện đó.”
Khoé
miệng Tống Khuyết hé một nụ cười ôn nhu, chăm chú nhìn bão tuyết mịt mù
hòa mình vào sông nước, giống như trùng diễn lại tình cảnh năm xưa, khe
khẽ thở dài: “Thủy để hữu minh nguyệt, thủy thượng minh nguyệt phù;
Thủy lưu nguyệt bất khứ, nguyệt khứ thủy hoàn lưu” (tạm dịch: “Đáy nước
có trăng sáng, trên nước trăng sáng nổi; Nước chảy trăng không đi, trăng
đi nước vẫn chảy”).
Khấu Trọng nghe xong
quên luôn cả trận quyết chiến, khen hay: “Tức cảnh mà sinh tình, vì tình
mà tả cảnh, tình cảnh giao hòa, sau lưng lại có thâm ý ẩn hàm chuyện
đời thăng trầm, bài thơ không thể nào hợp tình huống đương thời hơn được
nữa!”
Tống Khuyết nhìn sang gã, song mục
loang loáng thần quang: “Nói ra ngươi có lẽ không tin, ta lần đầu nhìn
thấy nàng, liền khẳng định nàng là đệ tử của Từ Hàng Tịnh Trai, đạp chân
vào trần thế tiến hành sự nhập thế tu hành mà sư môn chỉ định, lúc đó
Trần triều còn chưa bị Dương Kiên tiêu diệt, Thanh Huệ biết được ta là
thế hệ mới của Lĩnh Nam Tống gia, hỏi ta tình huống thịnh suy của Nam
Bắc triều.”
Khấu Trọng lại một lần nữa bị
Tống Khuyết làm cho hứng thú, hỏi: “Lúc đó Dương Kiên đã ngồi trên bảo
tọa Hoàng đế Bắc triều rồi?”
Tống Khuyết
gật đầu: “Là lúc Dương Kiên vừa nhận nghi lễ có cái tên đẹp đẽ ‘Thiện
nhượng ’, trở thành Bắc triều chi chủ, con người này về mặt quân sự là
nhân tài hiếm có, từ lúc đăng ngôi Đế vị cho đến lúc cử binh nam chinh,
khoảng cách thời gian cũng cả chín năm, chuẩn bị sung túc, kế hoạch chu
tường, bất kể là mặt chính trị hay mặt quân sự đều hơn xa hôn quân Trần
Thúc Bảo của nam triều. Nhưng lại có một khuyết điểm lớn, là độc đoán đa
nghi, không chịu tin người, cuối cùng giúp cho Ma môn có thể thừa cơ,
để Dương Quảng nối ngôi, đánh mất tất cả. Ngày nay Lý Uyên lại dẫm theo
đường mòn của Dương Kiên, càng không dám tưởng tượng tới hậu quả.”
Khấu
Trọng cảm thấy nói chuyện với Tống Khuyết không những là một thứ hưởng
thụ, hơn nữa còn khiến cho mình hừng hực tráng chí hiểu thấu đạo lý làm
người và trị loạn hưng suy. Tống Khuyết nằm phục ở Lĩnh Nam, nào có khác
gì Dương Kiên xếp đặt mưu kế rồi mới phát động khi nào cơ hội thắng lợi
vừa đến.”
Tống Khuyết điềm đạm thốt: “Ta
phân tích những điểm then chốt Nam yếu Bắc mạnh cho nàng nghe, miền Nam
sở dĩ có thể an bình trường kỳ, đều là vì phương Nam đất đai tài nguyên
trù phú, chỉ tiếc kẻ trị quốc không có năng lực, nghèo giàu không đều,
đất tốt đều tập trung vào tay giới quyền quý thổ hào, quan lại tham ô hủ
bại cấu kết. Trộm cướp dấy động vùng rừng núi, dân lành bị hại, khiến
cho bá tánh bỏ nhà cửa mà chạy, lòng người uất ức. Ngược lại Dương Kiên
không ngừng tiến triển, ai cao ai thấp liếc mắt là thấy liền.”
Khấu Trọng gật đầu: “Đây là kiến giải sâu sắc, Thanh Huệ trai chủ không....”
Tống
Khuyết bình tĩnh thốt: “Nàng quay về vấn đề dung hòa dân tộc, khi Dương
Kiên lên ngôi ở Bắc phương, người Bắc chạy loạn vào Trung thổ ta đã sớm
đồng hóa, hợp thành một dân tộc mới, vừa có ngoại tộc Bắc Tái, lại
không rời Hán thống ta văn hóa quảng bác ưu mỹ, căn nguyên thâm hậu,
thêm vào Hán tộc trường kỳ đối kháng các tộc Tái ngoại, đã dưỡng thành
một phong thái chuyên cần hùng dũng. Cho dù Dương Kiên thất bại, Nam
phương Bắc phương lấy Bắc thống nhất Nam, là hướng đi tất nhiên của sự
phát triển lịch sử.”
Khấu Trọng hỏi: “Phiệt chủ có đồng ý không?”
Tống
Khuyết mỉm cười: “Ta là người Nam, đương nhiên nghe không lọt lỗi tai,
lại không thể không thừa nhận lối nhìn của nàng là nhìn xa trông rộng,
thâm thúy chí lý. Ta chỉ ra nếu hiện thời kẻ xuất hiện ở phương Bắc
không phải là Dương Kiên mà là một hôn quân, kẻ lãnh đạo miền Nam không
phải là Trần hậu chủ thối nát, lịch sử có phải sẽ được viết lại không?
Nói đến ai thống nhất ai, thủy chung là vấn đề người này thịnh người kia
suy, Tống Khuyết ta đâu chịu thừa nhận sự phát triển của lịch sử có
tính tất nhiên không thể cải nghịch. Chính trị, võ công và thủ đoạn là
nhân tố trực tiếp quyết định lịch sử. Sự đối đầu Nam Bắc trước mắt, mở
một mức độ nào đó là sự lặp lại của hình thế năm xưa, ta muốn lấy sự
thật chứng minh cho tất cả mọi người thấy lịch sử là do con người sáng
tạo ra.”
Khấu Trọng càng lúc càng hiểu rõ
sự khác biệt giữa Tống Khuyết và Phạm Thanh Huệ, đều là vì góc độ lập
trường có chỗ bất đồng. Nếu quả Tống Khuyết là người Bắc, cuộc tranh
luận này sẽ không còn chỗ đứng. Với sự tài tình và chí khí của Tống
Khuyết, tuyệt không thể cam tâm quỳ gối dưới Hán tộc Bắc phương bị Hồ
hóa, mà y cũng không tín nhiệm người phương Bắc, nghĩ bọn họ không thể
không thể vạch rõ giới tuyến với người Hồ, bọn Lưu Vũ Châu, Lương Sư Đô
càng giúp cường điệu hóa định kiến của y. Nói đến Lý Uyên khởi binh từng
mượn sức Đột Quyết trợ giúp, đến bây giờ vẫn có quan hệ mật thiết với
Đột Quyết, binh Đột Quyết của Khả Đạt Chí hơn nữa còn là cột sống của
Trường Lâm quân của Lý Kiến Thành, đủ thứ chuyện như vậy, Tống Khuyết
khởi binh Bắc thượng là chuyện đương nhiên.
Triệu
Đức Ngôn trở thành Quốc sư của đông Đột Quyết, giúp Ma môn ngang hàng
với ngoại tộc. Bất kể Ma môn hay Từ Hàng Tịnh Trai đều thuộc vào hệ
thống văn hóa phương Bắc, mà Tống gia của Tống Khuyết chính là cột trụ
trung thành của văn hóa phương Nam, kiên trì ủng hộ cờ xí của Hán thống.
Sự bất hòa giữa Tống Khuyết với Lý phiệt, tới mức chính diện giao
tranh, chính đã thể hiện sự tranh đấu khác nòi giữa Nam và Bắc.
Tống
Khuyết nói đúng, lịch sử là do con người sáng tạo ra, nếu không có Tống
Khuyết, Khấu Trọng, ai thắng ai bại cũng có thể dự kiến.
Khấu Trọng hỏi: “Phiệt chủ đã biết Trần hậu chủ vô dụng, lúc đó sao không đánh chiếm, rồi chống lại Dương Kiên?”
Tống
Khuyết cười khà khà: “Ta lúc đó còn là hạng vô danh, mãi cho đến khi
đánh bại người mang danh tự Thiên hạ đệ nhất đao là ‘Bá Đao’ Nhạc Sơn
mới vang lừng thanh danh, lên ngôi Phiệt chủ. Ta lúc đó lập tức chỉnh
đốn Lĩnh Nam, trước hết bình Di hoạn, liên kết chư hùng miền Nam. Khi đó
Dương Kiên dùng thế cuồng phong quét lá rụng dẹp sạch Nam phương, định
tiến quân vào Lĩnh Nam, bị một vạn tinh binh của ta bền lòng ngăn trở
mười mấy vạn đại quân xâm phạm. Tống Khuyết ta mười trận thắng cả mười,
khiến cho Dương Kiên khó lòng tiến tới một tấc đấc, bức bách phải cầu
hòa. Ta biết chưa đến thời, chịu thụ phong làm Trấn Nam công, mọi người
nước sông không phạm nước giếng, ta chưa từng kính Dương Kiên một nửa
lễ, cho nên Dương Kiên trước khi giá băng vẫn vì không thể thu phục Tống
Khuyết ta mà lòng luôn canh cánh.”
Tiếp
đó lão hừ lạnh: “Người Bắc thống trị miền Nam thì sao chứ, một Dương
Quảng đã khiến thiên hạ lại lọt vào loạn cục chia năm xẻ bảy, nguyên
nhân bên trong không những là vì Dương Quảng hà khắc hại dân, ham lập
đại công, hao mòn quốc lực, càng chứng minh ta không ưa Hán nhân sau khi
Hồ hóa là chính xác. Sự dung hòa dân tộc không phải là chuyện tự nhiên
là được, kẻ giết Dương Quảng chính là Vũ Văn Hóa Cập một tên người Hồ từ
đầu đến đuôi. Muốn Trung thổ chấn hưng, bá tính có ngày tháng an lạc,
tất cần phải ủng hộ Hán thống mới có hy vọng. Thiếu soái cần ghi nhớ lời
nói này của Tống Khuyết ta.”
Khấu Trọng
gật đầu đáp ứng, cảm thấy gánh nặng trên vai càng trầm trọng, hơn nữa
lại sinh ra cảm giác quái lạ đối với chuyện Tống Khuyết từ từ khéo léo
chỉ dạy này.
Gã nhịn không được nói: “Lấy
Nam thống nhất Bắc là mục tiêu tối cao của Phiệt chủ, những chuyện khác
đều là thứ yếu, đã là như vậy, Phiệt chủ rất có thể cự tuyệt sự khiêu
chiến của Ninh Đạo Kỳ, cứ đơn giản để tôi đi nói với lão là lão nhân gia
không có thời gian lý tới, còn Phiệt chủ đi về chủ trì đại kế công đả
Giang Đô.”
Tống Khuyết đôi mắt toát ra
thần sắc tổn thương bất lực: “Ta không muốn giấu ngươi, đề nghị của
ngươi có sức hấp dẫn kinh người đối với ta. Nhưng kẻ hạ chiến thư là ái
đồ của Thanh Huệ, mà Phi Huyên càng khiến cho ta nhìn thấy được Thanh
Huệ từ trên người nó, cứ như là hóa thân của nàng, làm cho ta không nói
nổi lời cự tuyệt. Một khi đã quyết định Tống Khuyết nào sẽ nói ngược đẩy
đưa. Thanh Huệ quá rõ cá tính và cảm tình của ta đối với nàng, cho nên
chụp được chỗ hiểm của ta. Ta tỏ rõ quyết tâm phù trợ ngươi tranh thiên
hạ, ta đã rõ rõ ràng ràng dùng hành động để chứng minh tất cả. Sự vật
trong thiên hạ có thể làm cho ta động tâm không có nhiều, Ninh Đạo Kỳ
chính là một, thêm vào Thanh Huệ, bắt ta làm sao mà cự tuyệt.”
Khấu Trọng im bặt không nói được.
Tống Khuyết mỉm cười: “Bọn ta kiếm cây gỗ làm một bè gỗ nhé.”
Khấu Trọng ngạc nhiên: “Bọn ta phải đi đường thủy sao?”
Tống
Khuyết đáp: “Ninh Đạo Kỳ hiện tại đang ở Tịnh Niệm Thiền Viện đợi ta,
đi đường thủy có thể bớt chút cước lực. Đã có Thiếu soái làm bạn đồng
hành, ta có thể đỡ mất sức chèo bè, tĩnh tọa mấy canh giờ, đêm mai ta sẽ
quyết chiến với Ninh Đạo Kỳ ở thiền viện, xem coi ai là đệ nhất nhân
của Trung thổ.”
o0o
Từ Tử Lăng và Âm Hiển Hạc cả đêm leo
ra tường thành rời khỏi Hán Trung, đi vội lên Bắc, tiến sâu vào vùng
núi Tần Lĩnh, mới thật sự thể hội được tình huống đông cứng của băng
tuyết.
Tuyết trên quan đạo dày tới sát
gối, còn đông cả trên cây cối thành những chuỗi băng trong suốt, lúc gió
phất qua hoa tuyết lã tã rơi, cảnh vật sinh tình.
Đỉnh núi phủ tuyết nhấp nhô, không thấy người đi đường.
Mây mù dày kín che phủ bầu trời thâm trầm một màu xám xịt, bão tuyết tựa như sẽ hạ mình bất cứ lúc nào.
Âm
Hiển Hạc quay đầu liếc nhìn hai hàng dấu chân lưu lại: “Người của Đại
Minh Tôn giáo quyết tâm không ngừng truy đuổi bọn ta, khẳng định không
lâu sau sẽ rượt đến.”
Từ Tử Lăng quan tâm hỏi: “Ngươi có thụ thương không?”
Âm
Hiển Hạc đáp: “Không sao! Chỉ có chút ít huyết khí đọng nghẽn. Ài! Công
phu của Liệt Hà xem chừng còn cứng cỏi hơn Hứa Khai Sơn, thật kỳ quái.”
Từ
Tử Lăng thốt: “Bởi Hứa Khai Sơn còn đang mang nội thương chưa bớt, nếu
không, có muốn thoát thân cũng phần phải phí nhiều thời gian. Thật là
lạ!”
Âm Hiển Hạc ngạc nhiên: “Ngươi thấy lạ chỗ nào?”
Từ
Tử Lăng đáp: “Ngày trước lúc ở Long Tuyền, người của Đại Minh Tôn giáo
đâu có coi trọng Ngũ Sắc thạch gì đâu, ít ra không toàn lực tranh đoạt,
hiên tại lại như bất chấp tất cả mà giành, làm cho ta cảm thấy kỳ lạ.”
Âm Hiển Hạc gật đầu đồng ý: “Trừ phi bọn chúng không muốn ở lại Trung nguyên nữa, nếu không, không nên đến quấy nhiễu ngươi.”
Từ Tử Lăng rúng động: “Ta hiểu rồi!”
Âm Hiển Hạc ngạc nhiên: “Hai câu nói của ta lại có thể mở đường cho ngươi sao?”
Từ
Tử Lăng cười nói: “Chính là như vậy, trên sự thật bọn chúng chính là
không muốn ở lại Trung nguyên, còn muốn rời khỏi Tái ngoại, đến một nơi
bọn chúng có thể phát dương Đại Minh Tôn giáo. Bất kể là Tái ngoại hay
Tái nội, bọn chúng đều có cừu gia, chỉ một Thạch Chi Hiên thôi đã đủ
khiến cho bọn chúng lo sợ phập phồng, Bồ Tát hồi nữ lại càng không chịu
bỏ qua cho chúng.”
Âm Hiển Hạc không hiểu: “Bọn chúng còn có chỗ nào có thể đi chứ?”
Hai người vượt qua một đỉnh núi, lần theo quan đạo đi xuống triền núi.
Từ
Tử Lăng đáp: “Đương nhiên là Ba Tư nơi bắt nguồn của Đại Minh Tôn giáo,
chỉ có ở đó Ngũ Sắc thạch mới có giá trị và tác dụng, bọn họ chỉ cần
nói năng dễ nghe, đem Ngũ Sắc thạch hoàn lại cho nguyên chủ, chắc có thể
có chút thành tựu, nếu không chỉ ngồi đợi bị mổ xẻ.”
Âm Hiển Hạc hân hoan: “Suy đoán của Tử Lăng hợp tình hợp lý quá, ta không tìm ra chỗ hở nào.”
Hắn
lại nói: “Nếu Ngũ Sắc thạch đã thành món đồ duy nhất cho bọn chúng lên
đường và trùng chấn phong thái, bọn chúng nhất định không chịu tha cho
bọn ta.”
Từ Tử Lăng nói: “Vậy cũng tốt,
Hiển Hạc không phải muốn tìm công đạo cho An Lạc bang chủ sao? Bọn ta
trước khi đến Trường An lo xong chuyện này.”
Âm Hiển Hạc nhíu mày: “Đã là Tử Lăng có tâm ý như vậy, hồi nãy tại sao không chu toàn bọn chúng luôn.”
Từ
Tử Lăng đáp: “Hồi nãy quyền chủ động thao túng nằm trong tay bọn chúng,
lão ca ngươi lại nửa tỉnh nửa say, công lực bị gò bó đi nhiều, kẻ chịu
kém là bọn ta. Hiện tại bọn ta thu mình chực chờ, đón đánh bọn chúng,
hơn nữa có thể sinh động biến hóa chiến lược, gọi là tùy tiện mà hành
động.”
Âm Hiển Hạc cười khà: “Không lạ gì
Khấu Trọng và Từ Tử Lăng có thể danh chấn Tái nội Tái ngoại, ở với các
ngươi càng lâu càng cảm thấy các ngươi gan góc chọc trời, quỷ thần khó
lường, người khác khó bằng.”
Từ Tử Lăng thốt: “Tâm tình của ngươi đỡ hơn nhiều rồi!”
Âm
Hiển Hạc gật đầu: “Không biết có phải bị ngươi lây nhiễm hay không mà
ta chợt cảm thấy lạc quan phi thường. Thật ra hoàn cảnh của ngươi không
tốt hơn ta bao nhiêu, hơn nữa gần như là gút mắc không có cách nào tháo
gỡ được, nhưng ngươi vẫn dũng cảm đối diện. Vấn đề của ta đơn giản hơn
của ngươi, Kỷ Thiến một là biết nơi hạ lạc của Tiểu Kỷ, hai là không
biết, sau khi đến Trường An là rõ cả, nếu ông trời không chịu để huynh
muội bọn ta trùng phùng, ta chỉ còn nước chịu nhận số mạng, sau đó tận
lực trợ giúp Tử Lăng hóa giải đại tai kiếp của Trung nguyên này, hy vọng
có thể gầy chút phúc đức cho Tiểu Kỷ.”
Từ
Tử Lăng hiểu, nguyên nhân làm cho Âm Hiển Hạc chuyển thành tích cực là
mình đã kích thích tâm trạng hiệp nghĩa của hắn, tìm được mục tiêu cho
cuộc đời.
Gã hân hoan thốt: “Yên tâm đi! Ta có lòng tin ngươi có thể đoàn tụ cùng lệnh muội. Ui! Là mùi gì vậy?”
Âm
Hiển Hạc ngước mũi ngửi: “Ừ! Là mùi rất quen thuộc! Nếu ta không đoán
lầm, chắc có người nướng thịt sói đằng trước. Ta đã từng ăn thịt sói mấy
lần ở Tái ngoại, mùi thịt không khác gì.”
Hai người quẹo vào một hẻm núi, xa xa đằng trước bên quan đạo thấp thoáng đèn đuốc, mùi thơm chính là từ chỗ đó truyền ra.
Âm Hiển Hạc nói: “Là một dịch trạm, không ngờ trời lạnh đông đá như vầy vẫn có người ở lại.”
Từ
Tử Lăng thốt: “Cho dù có người ở lại, chắc đã sớm lên giường chui vào
chăn ấm say mộng, sao lại đốt lửa nướng thịt, hơn nữa lại là thịt sói
dữ.”
Âm Hiển Hạc cười nói: “Mối tư lự của Tử Lăng làm cho tiểu đệ cũng lo, bọn ta đi luôn hay là vào dịch trạm kiếm một hai miếng?”
Từ Tử Lăng điềm đạm đáp: “Qua cửa là khách, đương nhiên cứ tiến vào xem sao. Ý Hiển Hạc huynh thế nào?”
Âm Hiển Hạc vui vẻ nói: “Mọi việc cứ theo ý của Tử Lăng.”
Hai người cười cười nói nói, sải bước về phía dịch trạm.