Đất Trời- Chương 01 part 1
Ðinh Hợi, Hưng Khánh năm thứ nhất, 1407
Mùa Xuân, tháng 2, ngày 20, Tả tướng quốc Hồ Nguyên Trừng bị quân Minh đánh kẹp từ hai bờ sông Lô, lui về giữ cửa Muộn. Quân Minh rời về cửa Hàm Tử lập doanh trại. Trừng cũng rời quân đến Hoàng Giang, đón Thượng Hoàng Quí Ly và Hán Thương Hoàng Ðế từ Thanh Hóa tới.
Tháng 3, ngày 13, Trừng cùng Hồ Ðỗ, Ðỗ Mẫn tiến quân về Hàm Tử, thủy bộ có bảy vạn người nhưng phao lên là hai mươi mốt vạn. Quân Trừng bị mai phục tan rã, chỉ có thủy binh là thoát được. Quí Ly và Hán Thương vượt biển về Thanh Hóa.
Ngày 23, quân Minh đánh vào Lỗi Giang ở Thanh Hóa như chỗ không người.
Ngày 29, quân Minh lại đánh vào cửa biển Ðiển Canh. Ngụy Thức là tướng nhà Hồ, bẩm với Quí Ly và Hán Thương rằng ‘‘ Nước sắp mất, bậc vương giả không chết dưới tay kẻ khác ’’. Quí Ly sai chém Thức.
Tháng 4, ngày 11, bọn vệ quân nhà Minh chỉ có bảy đứa bắt được Quí Ly ở bãi Chỉ Chỉ. Một bọn khác bắt được Nguyên Trừng ở cửa biển Kỳ La. Hôm sau, lại bắt được Hán Thương và thái tử Nhuế ở núi Cao Vọng, thuộc huyện Kỳ Anh, Hà Tĩnh.
Người Minh thống kê những thứ thu được : 48 phủ, châu;168 huyện, 3129500 hộ, 112 con voi, 420 ngựa, 35750 trâu bò và 8865 thuyền, không kể đám vua tôi và con cháu nhà Hồ. Chinh di phó Tướng quân nhà Minh Trương Phụ sai Ðô đốc Liễu Thăng giải tất cả về Yên Kinh với đủ loại ấn tín, gồm Quí Ly, kẻ đã thoán ngôi nhà Trần , với các con là Thương, Trừng, Triết, Uông, các cháu là Nhuế, Lô, Pham, chắt là Ngũ Lang, Quí Tỳ, cháu gọi bằng bác là Cửu, Tuynh, Hoa, Tuấn, Việt, Hoảng... Ðám tướng thần khá đông, có Ðông Sơn hưng hầu Hồ Ðỗ, Hành khiển Nguyễn Ngạn Quang, Lê Cảnh Kỳ, bọn tướng võ là Bồng, Mông, Tài, bọn quan văn Nguyễn Phi Khanh, Nguyễn Cầu, Nguyễn Mão...
Tháng năm, hạ chí.
Ðoàn người vòng vèo như một con trăn khổng lồ trườn lên triền núi. Mặt trời như cái đấu lửa đổ dầu sôi lên cây cỏ bỗng lu dần đi từ đầu giờ Dậu. Gió ở đâu ùa về bừng bực từng chập. Chim muông nháo nhác kêu, hàng đàn vỗ cánh bay chao trên đầu những ngọn cây nghiêng ngả trong gió. Tiếng vó ngựa. Tiếng quát. Không khí oi nồng đặc quánh lại. Rồi tiếng sấm. Sấm động đổ rền vào vách núi, tiếng vọng từng chập âm a dọa nạt. Ðầu núi, nóc ải Phá Lũy mới đây còn nhìn rõ nay lung linh mơ hồ trong màn hơi bốc lên từ mặt đất. Lát sau, nóc ải như biến mất. Trên không chằng chịt những chớp xanh lè mắt mèo. Sét, sét nổ hàng loạt xé rách màn trời đục ngầu. Lại tiếng quát, tiếng hò hét. Ðám lính nhà Minh vừa chửi vừa chỉ trỏ. Con trăn khổng lồ chùn lại uốn khúc lẩn mình vào bìa núi dưới cơn mưa bắt đầu nặng hột.
Mưa quật xuống đất những làn roi trắng xóa. Dưới tàn lá cây rừng, đám người vội vã treo những tấm lán kết bằng lá gồi và xếp những mảnh liếp chắn nước theo chiều gió tạt vào. Hai người lính dong ngựa từ đầu đến cuối dòng người, tay đánh chiêng, miệng hò. Lệnh cho cả đoàn người ẩn náu trú đêm tại chỗ. Lệnh nhắc, kẻ có tên trong sổ đầy đi Kim Lăng nếu có ai trốn thì cả gia tộc sẽ bị xử trảm. Cả đoàn người im lặng. Chỉ có tiếng gió dập mưa sa. Và thỉnh thoảng, tiếng ngựa hí.
Một thiếu niên mình trần lẩm bẩm rồi hạ từ lưng xuống chiếc gùi đan bằng mây, miệng nói với lại kẻ đồng hành tay đang đỡ một lão niên mảnh dẻ. Lát sau, dưới tàn lá gồi, lão niên lẳng lặng nhìn về phía chân núi. Củi nhóm lên, lửa bắt đầu cháy phừng phực. Hai thiếu niên đổ nước vào chiếc nồi đất thổi cơm. Những mảnh khói sắc tím mượt lượn là theo triền núi trong mưa thổi đi mùi củi thơm lừng một buổi chiều nơi địa đầu giông bão. Lão niên đằng hắng :
- Hay là Bảo đi xuống phía dưới xem anh mày đâu ? Ðể Hùng ở đây là đủ... Ði đi !
Vâng lời, thiếu niên mình trần khoác lên vai chiếc áo tơi rồi lẳng lặng bước. Lão niên nhìn theo thở dài. Hùng cời lửa, rót nước ra bát đất, hai tay đưa cho lão niên. Cầm lấy bát, lão niên trầm ngâm :
- Có chuyện trò, thì bảo anh con phải về. Việc chăm nom cha có con với Bảo là thừa đủ rồi ! Anh con về cũng là để báo hiếu, nghe không?
Lẳng lặng gật đầu, thiếu niên mắt rưng rưng cúi xuống bắc nồi cơm, rồi vờ kêu :
- Khói quá, cay cả mắt...
*
Xuống dốc núi, Phi Bảo tay vin cành, chân xoay ngang, lò dò bước trên những hòn đá bám rêu trơn tuồn tuột. Ðoàn người dẫu là đi đầy vẫn được xếp theo một trật tự xã hội cố định. Ðám đi đầu là vua, là hậu, là hoàng tử, hoàng tôn. Sau đến bọn đại thần, cả văn lẫn võ, mỗi kẻ được phép mang theo một số người nhà. Tất cả, họ thực sự là bại binh của một cuộc chiến chớp nhoáng nên được canh giữ hẳn hoi. Lính nhà Minh được lệnh kèm họ sát nách, giáo mác hờm sẵn, sáng lòe, loảng xoảng. Kế đó, là một đoàn xe kéo. Ðoàn xe ước cả trăm, chở đủ loại chiến lợi phẩm bắt được ở Tây Ðô, ở Thăng Long... Dĩ nhiên là có ngọc ngà châu báu. Lại còn tượng Phật, chuông, khánh. Rồi kinh, sách, lăng, bia mộ, cột đình, cột chùa trên có khắc chữ. Thượng thư Hoàng Phúc, kẻ giúp Tổng binh Trương Phụ an dân, đã ra lệnh có thể thì mang về tất cả những dấu vết chữ nghĩa của bọn Nam di, cả chữ Nôm lẫn Hán tự. Cái gì không mang được, đốt, đốt hết. Và giấu của thì còn nhân nhượng, chứ kẻ nào giấu sách là mang chém cả nhà. Nghe đồn là ở cửa bắc Thăng Long, có một tay thư sinh mặt trắng, ngông cuồng kêu trời rồi nhảy vào đống sách phừng phực cháy. Bọn lính quây lại, và khi anh ta nhảy ra thì chúng lại đạp cho ngã lộn vào đám lửa. Còn ở chợ Ðồng Xuân, cả một nhà tám người bị chém, đầu cắm cọc, bêu suốt ba ngày. Nhà này đem giấu gia phả không mang nộp.
Sau đoàn xe chở chiến lợi phẩm là đến bách tính. Họ thường là những kẻ nổi tiếng có tay nghề độc đáo. Nào là thợ vàng, thợ bạc. Nào là thầy lang, sư, sãi. Rồi ả đào, con hát. Và rất nhiều thợ rèn. Loại này nguy hiểm hơn cả, mang đi Yên Kinh thì việc triệt cái khả năng rèn đao, đúc súng ở Giao Chỉ coi là xong. Vì thế, chỉ đám thợ rèn là bị canh giữ cẩn thận, số còn lại tương đối thoải mái. Thường là họ được mang cả gia đình đi theo, tránh chuyện sau này họ có thể trốn về vì nhớ con thương vợ.
Bảo vừa đi vừa trương mắt nhìn quanh tìm anh. Mưa vẫn như roi quất vào mặt khiến Bảo cứ chập chập lại vuốt nước giụi mắt. Sáng nay, Thượng thư Hoàng Phúc ở đâu bất ngờ cưỡi ngựa đến gặp cha con chàng rồi bảo Nguyễn Trãi đi theo. Khi Thăng Long thất thủ cách đây bốn tháng, Phi Khanh đưa đám con ngược lên Mường La nhưng giữa đường bị chặn bắt. Chia làm hai toán, đám đi với Nguyễn Trãi thoát được. Thế cùng, Phi Khanh phải hàng. Hoàng Phúc gom quyển thi của đám hai mươi sĩ tử cùng đỗ kỳ thi đầu nhà Hồ cách đây sáu năm rồi bỏ công ra đọc hết. Phúc bảo, trong số đó chỉ có Trãi mới có thực học, thấu hiểu Chu - Trình, trí lực hơn hẳn người đời. Bắt Phi Khanh thư cho Trãi dụ hàng, Hoàng Phúc giở thái độ bề ngoài mềm mỏng nhưng thực ra vô cùng quyết liệt. Ðổi lấy mạng cha, Trãi đành về Thăng Long và xin Hoàng Phúc cho mình đi theo cha để báo hiếu. Phúc tính toán, giá mà thuyết phục được Trãi ra hợp tác thì bọn Nguyễn Mộng Tuân, Lý Tử Tấn... là những kẻ đồng khoa với Trãi chắc rồi cũng theo. Ðặt một bộ máy cai trị mới, dùng bọn người này là bọn chưa có dính dáng sâu xa với cả nhà Trần lẫn nhà Hồ thì đúng là thượng sách. Vì thế, Phúc ầm ừ, lại xui Trương Phụ giả giận đòi đem chém Trãi, rồi chính mình ra can xin như cứu mạng cho Trãi. Hiểu rõ cái chước ấy, Trãi vẫn rập đầu cảm tạ, chỉ thưa, cha đi đầy mà con lại ra làm quan thì cái mạng mọn này dẫu có cứu nhưng thế là thân bại danh liệt, nói còn ai nghe, thưa Thượng quan.
- Này, nhà anh kia ơi ! Vào giúp cho một tay !
Bảo quay đầu lại. Dưới chiếc chiếu lá buộc xiêu vẹo ngang đầu, một lũ mấy người đàn bà ngồi co vào nhau, mặt mũi nhợt nhạt vì lạnh. Bảo lại gần, chân đá vào đám cành cây tươi xếp thành đống dưới một gốc cổ thụ.
- Chúng em châm mãi mà không cháy. Anh châm giúp cho, trời lạnh quá.
Tiếng cô gái ban nãy lại vang lên, giọng van chịu nghe mủi lòng.
- Các chị có diêm hoàng không ? Bảo hỏi.
- Có. Chúng em cũng có để nhưng lửa không bắt...
Bảo rút rìu chặt thêm cành, chọn ra những cành còn ráo, vun vào. Rút ra một sợi giẻ, Bảo nhúng vào lọ dầu làm bấc rồi bật hồng châm lửa. Lát sau, lửa bén. Ðến khi lửa đã có ngọn, Bảo lại nghe :
- Ðội ơn anh nhé ! Không có anh thì chúng em chết rét mất.
Quay lại, Bảo bấy giờ mới để ý thấy năm cô con gái, cô lớn nhất thì chạc hai lăm, cô nhỏ nhất chắc chỉ mười ba mười bốn. Nhìn chân họ cong queo xếp vòng vì nay buộc phải mặc quần theo kiểu người Minh chứ không phải là váy như xưa, Bảo thương hại bảo :
- Các chị ngồi xổm dễ chịu hơn !
Cô gái nhỏ nhất, cũng là người nãy giờ lên tiếng nói với Bảo, nhấc người lên ngồi thử rồi bảo các chị :
- Thật đấy, ngồi xổm đỡ mỏi...
Cô cười hở lợi, hai hàm răng nhuộm đen nhay nháy ánh lửa, nhìn Bảo vẻ biết ơn, miệng ríu rít :
- Chúng em là chị em, ở phường Nghi Xuân, theo nghề ca kỹ. Họ bắt chúng em đi, bảo là sang bên đó để hát cho Vua họ nghe, có ăn có mặc, không phải lo gì sất !
Cô chị lớn lúc bấy giờ thở dài, hai tay hơ lửa bóp vào nhau, mắt mở trừng trừng nhìn vào quãng không trước mặt. Bỗng cô cất giọng, hát nho nhỏ:
Trèo lên núi dốc
Ngồi gốc cây rừng, (ôi) tôi ngồi gốc ( ơ à ) cây rừng
Ối a, ông trời, ối a...
Rằng tình ( ô anh ) ở lại
Rằng tình ( sao anh ) ở lại
Cho chặt hết cây rừng, (là) em còn vẫn ( ối a ) khóc thầm...
Cả đám cất tiếng hát theo cô chị, giọng thê thiết như tiếng chim trú mưa trong tịch mịch núi rừng. Cảm thấy nỗi bi phẫn dâng lên, Bảo quay mặt đi, lòng rưng rưng thương cho kẻ đi người ở. Không dám ở lại lâu, Bảo đứng dậy. Cô bé nhỏ nhất hoảng hốt ngước nhìn :
- Anh về dưới xuôi cho chúng em đi với. Mưa bão thế này, trốn chắc dễ...
Bảo đứng sựng lại. Cô bé đã đứng dậy đi đến cạnh Bảo :
- Cho chúng em đi với, rồi em về hầu hạ cho...
Ánh lửa hắt lên mặt cô bé màu hồng rừng rực, màu của sự liều lĩnh trong tuyệt vọng, liều lĩnh đến nỗi sẵn sàng đốt cháy ngay cả chính đời mình. Bảo cắn môi, thở dài :
- Không, tôi không về xuôi được.
Cô bé nhìn vào mắt Bảo, nửa thách thức, nửa khinh bỉ. Bảo cúi đầu. Một mảnh ván khi người ta bám vào để khỏi chết trôi mà là một mảnh ván mục thì quả thật đáng khinh đáng hận. Cô bé nhìn các chị, giọng thiểu não :
- Thôi em đi về đây !
Dứt lời, cô chạy băng băng đi.
Trên đường về sau khi tìm thấy Trãi, Bảo đi ngang một khu cây cỏ rậm rì. Rõ ràng, chàng nghe thấy tiếng cô bé lẫn trong tiếng thở hổn hển và tiếng cười thô bạo. Hình như cô gào lên thảm thiết :
- Ối giời ơi, buông tao ra...
Bảo nghiến răng rút con dao rừng, tay nắm chặt đốc dao, máu hừng hực dồn lên mặt. Ði được vài bước nhưng đủ thời gian để kịp suy nghĩ, chàng khựng lại, thụp người ngồi xuống vệ cỏ. Trong sự bất lực, Bảo chợt thấy chính mình cũng là kẻ tòng phạm của tội ác. Tiếng kêu trời trong rừng mưa chiều hôm ấy ám ảnh Bảo suốt một đời.
*
Khi mưa dứt hột sau độ ba tuần hương, tiếng lính quát vang ngoài căn lán căng tạm. Lão niên chậm rãi nhìn ra ngoài. Bảo đi trước, sau là Hoàng Phúc, Nguyễn Trãi và một đám võ sĩ bước theo. Hoàng Phúc mặc triều phục nhà Minh, đầu đội mũ cánh chuồn, thắt đai màu tía dành cho cấp hành khiển. Trên dưới tứ tuần, người thấp bé nhưng tròn trĩnh, Phúc có cái tật cứ tập trung suy nghỉ là mắt nháy liên hồi, nhưng một khi quyết đoán điều gì thì mắm môi lại. Vốn có tiếng cẩn trọng, Phúc lại mềm mỏng, thường rất tinh nhậy trong cách phân bổ hành chính nên được Vua nhà Minh hết lòng trọng dụng trong việc bình định an dân. Bước vào, Phúc vòng tay, vừa cười vừa nói :
- Kẻ này đường đột đến thăm, mong đại nhân xá cho - Quay sang Trãi đi cạnh, Phúc đằng hắng - ... có công tử đây nên tôi mới mạo muội để tỏ thêm đôi lời...
Ðứng dậy, lão niên vái lại, ngắt lời :
- Tiện nhân là kẻ chiến bại, quan lớn cho sống thì sống, bắt chết thì chết, xin ngài chớ quá lời...
Vái lại, Hoàng Phúc nhẹ nhàng :
- Quân tử ở ngoài vòng thành bại, kẻ này có phải mù đâu mà không biết ai vào với ai. Hai chữ Thế Thời lại chẳng ở tay người nên thành bại do Trời, nào do mình. Dám xin đại nhân cho tôi có dịp đàm đạo dăm ba câu về Thế Thời và hai chữ Xuất Xử...
Phúc nhìn quanh nhưng chưa kịp nói thêm thì một tên lính phóng ngựa đến, nhẩy vội xuống quì vái, rồi nghiêng người ghé vào tai Phúc thì thào. Phúc nghe, trán hơi cau lại. Bước ra, Phúc nhìn lão niên, cúi đầu nghiêm trang :
- Kẻ ưu thời mẫn thế là người không bỏ phí đời mình. Bản quan đã đôi lần bàn hơn thiệt rồi, xin đại nhân nhớ cho. Minh Thành Tổ tìm cách phục hồi con cháu họ Trần là thuận mệnh Trời và hợp lòng người. Công tử tuổi còn trẻ, trí lực lại hơn người, bỏ phí thì quả là vô cùng đáng tiếc cho con dân Giao Chỉ.
Lão niên vái, không đáp. Ðợi Hoàng Phúc bước khỏi lán, lão quay lại bực bội :
- Hừ, Trãi có biết chúng tính thế nào không ?
Nhìn vào màn đêm chụp xuống đen như đổ mực, Trãi đáp :
- Dạ biết... Vì thế, con xin với chúng để con theo cha báo hiếu.
- ... nhưng thế là hạ sách. Chúng tính rằng nếu con hàng phục chúng, thì cả bọn sĩ hoạn sau rồi cũng vậy. Khi lớp sĩ đã cộng tác với chúng thì chỉ còn đám võ dũng vô mưu, đánh dẹp như phủi tay. Còn phục hồi nhà Trần, chỉ là danh, không là thực, con rõ chứ ?
Gật đầu, Trãi lại thở dài :
- Bên họ ngoại nhà con, Vương thúc Trần Thúc Dao bị lừa vì cái chiêu bài đó rồi. Con nghe nói cả Trần Nhật Chiêu cũng đã hàng phục Trương Phụ, hiện được bổ đi trấn giữ Nghệ An...
Lão niên cười nhạt :
- Quân người, tướng mình thì tướng lấy đâu ra quyền. Lại nhất cử nhất động là có kẻ tâu trình ngay. Thở dài, lão niên hạ giọng - Thực như vậy thì không thực, mà danh, xét cho cùng, còn tệ hơn hư danh. Ðời sau người ta gọi là bọn bán nước... Còn Nguyên Hãn thì thế nào ?
Trần Nguyên Hãn vốn là quốc thích, vào hàng cháu Quốc thượng hầu Trần Nguyên Ðán, gọi mẹ Trãi là dì. Mẹ ngày xưa học với cha chàng lúc đó còn là anh đồ trẻ Ứng Long, thương yêu ăn nằm vụng trộm với nhau đến có mang. Long sợ bỏ trốn, nhưng Ðán cho người tìm nhắn, cứ xem cái gương Tương Như với Văn Quân, nếu thế được thì Ðán gả con gái cho. Ứng Long quả sau thi đỗ Thái học sinh, nhưng không được vời ra làm quan nhà Trần. Sau khi Quí Ly thoán ngôi, Ứng Long đổi tên thành Phi Khanh, được bổ làm Hàn Lâm học sĩ.
Khi còn ở với ông ngoại là Nguyên Ðán, Trãi thỉnh thoảng gặp Hãn trong những dịp tế lễ ma chay. Lần cuối là lần cả hai dự đám tang của Phế Ðế Duệ Tông, bị chính cha là Thượng hoàng Nghệ Tông lệnh cho bóp cổ chết. Sau đó, Hãn nhất quyết không can dự vào chuyện triều chính. Về trang trại do cha ông đểà lại, Hãn lo việc đồâng áng, thường hãnh diện nói rằng bát cơm ăn là do chính tay mình làm, không phải nợ nần nhờ vả một ai. Sau nông vụ, Hãn thích đi ngao du, hễ có dịp là tìm Vũ Mộng Nguyên. Người này đỗ Thái học sinh năm Quí Dậu đời Thuận Tông năm thứ sáu, nhưng lui về ở ẩn. Không nói ra, Nguyên thỉnh thoảng úp mở chê cách dùng người của Thượng hoàng, ý ám chỉ sự chuyên quyền của Hồ Quí Ly lúc bấy giờ là Ðồng bỉnh chương sự, làm mưa làm gió đến độ chính Quốc thượng Nguyên Ðán cũng phải nhẫn nhục nương thân. Sau khi Thăng Long thất thủ, Hãn mang gia tộc chạy về Thanh Hóa, gom thủ hạ trên dưới ba trăm người rút vào rừng tính kế phù Trần, nhưng hình như mới chỉ đánh tiếng, chưa rõ hư thực thế nào. Thấy Trải im lìm, lão niên sốt ruột nhắc lại câu hỏi. Trãi giật mình thưa :
- Nguyên Hãn cản Thúc Dao không được, đã bỏ ra Hóa Châu đi lang bạt, rồi sau lại nghe đã quay về nhà, không ai biết đích xác ở đâu. Con độ Hãn về lại vùng Hải Dương chăng ...
Lão niên thở ra:
- Trong đám hậu duệ nhà Trần, chắc chỉ có Hãn là người được việc lớn thôi. Còn lại thì chẳng nên cơm nên cháo gì. Vả lại, đức mỏng lắm rồi, nhà Trần có muốn phục lại tưởng chẳng khác chi chuyện vá trời đội đá.
*
Cha con Trãi ngồi quanh đống lửa bập bùng cháy. Ðêm về, sương núi bốc lên thốc buốt giá vào đến xương đến tủy. Không ai nói năng gì, chỉ còn tiếng củi cháy lách tách giữa núi rừng, và thỉnh thoảng tiếng khỉ tiếng vượn chí chóe văng vẳng từ xa. Bỗng có tiếng chân rồi một người mặt tái mét chạy vào lán. Cúi đầu vái lão niên, người đó quì một chân, giọng hốt hoảng :
- Quan gia có lệnh vời Hàn Lâm học sĩ Nguyễn Phi Khanh !
Nói xong, người đó lại vái chào rồi hấp tấp đi. Lão niên chép miệng bâng quơ, bây giờ vua chúa gì nữa mà xưng Quan gia, nhưng cũng quơ chiếc gậy đứng lên vẫy Trãi. Ðỡ cha, Trãi dìu đi, chân đạp vào những mỏm đá sắc cạnh mấp mô trên dốc. Khí núi lạnh buốt ngấm dần vào người, Phi Khanh run rẩy, thỉnh thoảng lại níu tay Trãi lấy đà. Quanh lối đi, quân Minh đã giải thành từng nhóm đi tuần tra, tiếng dáo mác đập loảng xoảng. Ðến một khoảnh đất rộng, lính tráng quây vòng một dãy lều có liếp chắn quanh. Ðó là nơi tạm trú của gia quyến họ Hồ vừa bại trận.
Bước vào, Phi Khanh ngước mắt đảo quanh. Cạnh một chậu than hồng, Quí Ly ngồi trên một tấm da báo, mắt nhắm lại như ngủ, lông mày bạc như cước trắng chạy xệch xuống đuôi mắt thỉnh thoảng lại giật lên nhè nhẹ. Hai bên Quí Ly là Hán Thương và Nguyên Trừng. Hán Thươngï vẫn mặc triều phục, áo gấm màu vàng có thêu rồng bằng chỉ đỏ, đầu đội mũ Triều Thiên. Về phần Nguyên Trừng, cân đai không có nhưng vẫn còn nai nịt, chỉ thiếu đao kiếm, thứ khó mà giữ được khi quân chẳng còn, tướng chẳng có. Ðám quan văn võ thuộc cái triều đình phù du kéo đúng được sáu năm quyền bính lục tục cúi đầu lấm lét bước vào. Ðợi cho họ ngồi yên vị, Hán Thương ủ rũ kể lể rồi thở dài :
- ... lại thêm cái vạ mới, chúng điểm danh tối nay và không thấy hoàng tôn Hồ Ngũ Lang đâu. Thượng thư Hoàng Phúc ghé qua, dọa sẽ đối phó thẳng tay, nay đã lên hội bàn với Ðô đốc Liễu Thăng. Mong các vị giúp ý xem ta phải hành xử thế nào trong tình thế này.
Thời gian chùng xuống, giãn ra chơ vơ như một sợi dây căng mới đứt. Nhìn đám quan văn võ đi đầy ngơ ngác, Trãi vừa giận vừa thương. Lát sau, Thượng tướng Hồ Ðỗ ngập ngừng :
- Giông bão thế này, đi lạc là thường. Thôi thì triều đình cứ xin tạ lỗi họ là xong !
Lúc ấy, Nguyên Trừng lắc đầu nhếch mép. Quí Ly mở mắt, lấy tay gõ xuống thành ghế, cười ằng ặc trong cổ. Ðầu chít khăn đen, ngoài khoác chiếc áo ngự hàn lông gấu, thân thể Quí Ly phình to tương phản với khuôn mặt xọm lại, gò má gồ lên như hai nấm đấm, và cặp mắt trũng sâu cứ mở ra nhắm vào mệt mỏi. Miệng đã rụng hết răng, Quí Ly móm mém phều phào :
- Lỗi với chẳng lỗi ! Thua thì tội lỗi gì mà chẳng phải chịu. Xin ai, ai cho mà xin...
Hán Thương cuống lên :
- Tâu bẩm Thánh Thượng, thế thì phải làm gì bây giờ ? Nhìn Nguyên Trừng, Thương tiếp - Ngũ Lang là con cháu huynh thì huynh phải chịu tội là đúng phép. Con dại cái mang là thế !
Cười khẩy, Nguyên Trừng mím môi không đáp, mắt ngước nhìn lên trời như không nghe thấy gì.
- Im, im đi ! Quí Ly quát khẽ. Chịu, ai cho chịu ? Tội gì ? Chỉ có một tội là thua, thế thôi. Nhìn đám quan, Quí Ly tiếp - này các ông, lộc nhà ta các ông chưa hưởng bao nhiêu, nhưng khi trước thì chính ta ban phát cho các ông bổng nhà Trần. Chẳng nhiều thì ít, các ông cũng nợ họ Hồ. Bây giờ, xí xóa hết nếu như các ông bảo làm sao chỉ có non nửa năm mà ta đã thua giặc Ngô dễ dàng đến vậy. Biết thì ta có chết mới nhắm mắt được...
Dứt lời, Quí Ly ngửa mặt lim dim, ngón tay vẫn tiếp tục gõ nhẹ trên thành ghế. Khuôn mặt của một kẻ làm gió làm bão trên ba mươi năm liền căng cứng khẩn trương, hơi thở khò khè gấp lên như thúc giục. Bọn Hán Thương, Nguyên Trừng cúi đầu. Ðám văn võ quan cũng cúi đầu. Không khí đặc quánh lại, và gió bên ngoài lại bắt đầu cất lên giễu cợt. Quí Ly thình lình hổn hển mắng :
- Ðồ vô dụng. Ðồ chó heo, sao không mở miệng ra ? Chúng bay là quân hèn hạ, bây giờ cho nói đấy, sao cứ câm như hến. Xưa, sợ uy ta nên có câm còn hiểu được. Nay ta có còn là cái gì nữa đâu mà bay cứ ngậm miệng nín lời...
Hụt hơi, Quí Ly lại nhắm mắt, tay xua xua. Nhìn Phi Khanh im lặng, nước mắt ứa xuống đọng vào những sợi râu ngả bạc, Trãi bỗng thấy tủi nhục vô bờ. Lấy công nương nhà Trần, cha chàng dù đỗ đạt cũng không được dùng vì cái tội dân dã mà dám vịn cành vàng lá ngọc, hai mươi năm liền vạ vật qua ngày. Phò nhà Hồ thoán nghịch nên dẫu danh không phải là danh chính, cha chàng vịn vào ba chữ tri thiên mệnh. Nhưng nay, mang thân phận đi đầy, cái thiên mệnh nếu có thì chữ "tri" kia không thể đúng được. Quí Ly không nói nữa, chỉ nhổ phì phì khinh bỉ. Trãi không kìm được, đứng lên khom lưng vái :
- Khải trình Thánh thượng, non nửa năm thế là lâu chứ không phải là chóng. Ðấy là cái ngọn của sự được thua. Muốn hiểu, phải tìm cái gốc.
Bật dậy, Quí Ly mắt sáng lên nhìn Trãi, giục :
- Gốc. Ừ, tiểu tử nói phải. Gốc thế nào ?
Cúi đầu Trãi ngẫm nghĩ. Xưa Thánh thượng có thề với tiên đế Trần Nghệ Tông là không thoán ngôi Vua, nhưng sau nuốt lời, ấy là bất trung, bất tín. Sau, đã ép Thuận Tông đi tu mà còn giết cho bằng được, ấy là bất nghĩa. Ðoạt được ngôi vua, biết thế nên phao mình là dòng dõi Ngu Thuấn đổi tên nước là Ðại Ngu. Nhưng lại ngay đó đưa quân chinh phạt Chiêm Thành, cướp đất lập công, mong xóa cái tội thoán nghịch. Chiến tranh khiến dân đen oán thán, trong khi nội cuộc chưa yên, ấy là bất trí. Rời đô từ Thăng Long về Tây đô Thanh Hóa chỉ vì sợ giặc Ngô sẽ mượn cớ phục Trần mà xâm lăng. Ấy là bất dũng. Kinh đô lại chỉ dựa trên hiểm mà không dựa vào đức, ấy là bất đức. Chống giặc Ngô, thu chuông chùa để đúc khí giới, bắt sư sãi xung quân, lại dùng sách vườn không nhà trống khiến dân đen hoang mang, thì là cách đánh giặc bằng lực mà quên đi rằng dân vi quí, ấy là bất nhân.
Nghiến răng, Trãi định nói ra hết lòng mình cho hả. Ngước nhìn thấy Quí Ly mắt hau háu, chân tay run rẩy, Trãi bỗng thấy cổ khan chát, lòng chùng xuống. Một nỗi thương xót bao la cho thời thế chứ chẳng phải riêng ai dâng lên như thủy triều. Nói ra bây giờ, có thay đổi được gì đâu. Chỉ thêm cay đắng. Thêm tủi nhục. Quân thần nay một ruộc, chẳng lẽ còn dày vò chi nhau. Trãi khẽ lắc đầu. Giọng ngậm ngùi, Trãi chỉ thốt :
- Cái gốc là ở Thiên Mệnh, bẩm Thánh thượng.
Quí Ly trợn mắt, quát khẽ :
- Thiên Mệnh ! Ngẫm nghĩ một lát, Quí Ly khà khà cười, cao giọng - Ai khiến mi an ủi ta hả ranh con ?
Lẩy bẩy đứng dậy, Quí Ly mất thăng bằng lại ngã ngồi xuống ghế, mồm hộc ra một bụm máu. Nguyên Trừng liếc nhìn Trãi, ánh mắt long lanh như muốn ăn sống nuốt tươi. Lúc ấy, Phi Khanh từ tốn đứng lên vái, chậm rãi:
- Tiểu tử nói vì Thánh thượng hỏi. Thật ra, Thiên Mệnh không ở đâu xa mà chính ở ngay tay ta. Mất Thiên Mệnh, ta mất nước . Tất cả chỉ vì triều đình thiếu đúng có một chữ Tâm. Vua quan như thuyền nhưng dân như nước. Thuyền không lật được nước, chỉ nước mới lật được thuyền. Có chữ Tâm, nước xuôi gió thuận, thế là Thiên Mệnh. Không có, ắt bão giông sóng dậy, chuyện ý trời ý dân hẳn nhiên là một vậy !