Đất Trời- Chương 05 part 2

Ðinh Lễ lại ồm ồm :

- Cái đầu bảo, nhưng tay mà yếu thì cũng chẳng làm gì được !
- Thế khi cái đầu yếu, chỉ tay mới mạnh thì thế nào ? Mạnh mà chém vào bùn, thì thử hỏi có ăn thua gì ?
Bí thế, Xí hùng hổ :
- Ông đừng khinh chúng tôi không có cái đầu ! Một cây làm chẳng nên non. Ba cây chụm lại thành hòn núi cao.
Bấy giờ, Trãi đứng lên vái Lợi và toàn thể đám Lũng Nhai. Trãinhỏ nhẹ :
- Trãi tôi đến đây, nếu có lỡ lời thì xin các vị bỏ quá cho, nào dám khinh ai. Ngừng lại, giọng cương quyết, Trãi tiếp - Những điều Trãi nói, Trãi tin và thành khẩn chia xẻ với các vị. Trong thế cuộc này, Trãi cũng một lòng đuổi giặc, nhưng thiết nghĩ, chỉ có sức tay thì không vãn hồi được đại cuộc...
Xí xen vào :
- Nhưng ông chỉ được cái nói miệng...
Lợi quát khẽ, mắt trừng lên khiến đám võ biền khựng lại. Trãi nhìn Xí, chững chạc :
- Tôi không chỉ nói miệng. Nghe Trí Viễn và Lê Chiến rằng ông cao cờ nhất, có tiếng là cơ mưu. Tôi cũng học đòi, khi rảnh rỗi đi được dăm ba nước. Tôi muốn hầu cờ ông, và thêm hai vị ông chọn vào cho thành ‘‘ hòn núi cao ’’ như lời ông dạy...
Xí hăm hở :
- Ðược, được. Có ngay !
Trãi gằn giọng :
- Vì tránh chuyện nói miệng, nếu tôi thua tôi xin tự nguyện chết dưới tay kiếm của ông. Ðể cho công bằng tôi cũng xin với ông như vậy...
Câu chuyện dẫn đến một bước bất ngờ khiến mọi người ngậm miệng im như tờ. Xí thở hổn hển một lát rồi lớn tiếng :
- Ðược, được !
Xí chưa dứt lời, tiếng tù và rúc lên, hai tiếng nhặt, một tiếng khoan. Lợi nhìn đám võ biền, vẫy Linh đi theo. Một lát sau, Lợi sánh vai Phạm văn Xảo vào trướng quân. Số là Xảo dấy quân vùng Thái Nguyên, tập hợp được đám Tày, Mường dưới quyền họ Xa Khả Tham và sau lại liên minh với họ Bế miệt Cao Bằng. Nhận được thư Trãi, Xảo phúc đáp, bằng lòng sát nhập lực lượng vào nghĩa quân Lam Sơn, làm thế ỷ dốc đỡ nhau chống giặc.
Nhìn thấy Trãi, Xảo tươi nét mặt, chạy lại nắm tay vồn vã. Tối hôm ấy, khi chỉ còn hai người, Xảo và Trãi lững thững bước ra mỏm núi trước doanh trại. Lòng như dao cắt, Trãi ngần ngừ :
- Huynh biết chuyện về Xuyến chưa ?
Xảo lắc đầu :
- Sau khi huynh rời Ðông Ðô, đệ cũng phải đi ngay, chỉ cho người về báo với nhà rằng thế nào giặc cũng về xục xạo. Gia đình đệ lánh đi, nhưng khi chạy đến Vĩnh Phú thì lạc mất Xuyến...
Nắm tay Xảo, Trãi nghẹn giọng :
- Xuyến ngược về nam, đến sông Cầu thì...chết đuối rồi !
Không kìm được, Trãi nấc lên từng chập. Xảo thẫn thờ, lẳng lặng ôm vai Trãi. Chập chùng, rừng núi Lam Sơn vây bủa một tiếng thổn thức chừng như không có gì an ủi được .
*
Trãi thảo xong hịch xưng Vương cho Lê Lợi thì vừa vặn Trần Nguyên Hãn đến Lam Sơn. Lợi xem, đỏ mặt đưa cho Hãn, miệng nói :
- Thôi, hay là để ông xưng vương, Lợi này vốn dân dã, chẳng cam nổi đâu !
Biết là Lợi chỉ khéo mồm, Hãn cười ha hả :
- Nhà Trần chúng tôi công hầu khanh tướng đã hơn hai trăm năm, ăn lộc của thiên hạ thế quá nhiều rồi. Ông xưng Vương là hợp luật tuần hoàn, Hãn xin vâng mệnh trời !
Nắm tay Hãn, Lợi nói :
- Ðuổi giặc xong, thanh bình rồi ta cùng hưởng !
Hãn biết chuyện đấu cờ giữa Trãi và Xí, quay nhìn rồi hỏi thẳng :
- Này Trãi, chú định chém nó thật à ?
Trãi chỉ điềm nhiên mỉm cười. Số là Trãi xưa đánh cờ với Băng Hồ tiên sinh từ lúc lên bốn. Ðến sáu tuổi, mười ván, Trãi thủ hòa đến sáu. Khi đó, Băng Hồ mất, nhưng cái tiếng cao cờ của Trãi đã đồn về tới Thăng Long. Lợi nghe Hãn hỏi, chột dạ nhưng không biết phải hành xử thế nào, bán tín bán nghi nhìn. Trãi kể vợ Xí đã đến khóc lóc xin mạng, bảo ‘‘ Nhà ông tha mạng cho nó, vốn đẻ ra đã lỗ mãng, lại cứ tưởng mình khôn ’’. Trãi bảo ‘‘...bà về nói ông đến đây, ba mặt một lời chứ nếu không tôi mang tiếng bỏ cuộc thi này ! ’’. Hai hôm sau, Xí tới xin gặp, bẽn lẽn ‘‘...tôi mạo muội chót phạm thượng, nay đến xin với ông để khỏi làm con quỉ không đầu ’’. Trãi đáp ‘‘ Quân tử nhất ngôn, tứ mã nan truy... ’’. Xí cuống lên ‘‘ Thế nghĩa là thế nào ? ’’. ‘‘ Nghĩa là lời nói đã nói ra, bốn con ngựa có đuổi cũng chẳng kịp. Muộn mất rồi ! ’’. Lúc ấy Xí co dúm người lại, mặt tái bệch. Trãi lại nhẹ nhàng ‘‘...Thôi, chỉ có đại đầu mục mới gỡ được ’’. Xí gặng hỏi nhưng Trãi không đáp. Ngay hôm đó, bọn Ðinh Lễ, Lê Sát, Lê Ngân... đều đến xin gặp, nhưng Trãi thoái thác vì công việc thảo hịch bộn bề.
Lợi nghe Trãi kể đến đấy, vội vàng hỏi :
- Tôi gỡ là gỡ làm sao ?
- Sau khi ra hịch, ngài là Vương. Ngài có quyền sai khiến, lệnh cấm đánh cờ là xong. Nhưng cứ lệnh mồm thôi không được. Tôi đã thảo sẵn năm điều quân luật, xin ngài xét chuẩn.
Lợi đọc :
Lệnh cho các tướng hiệu và quân nhân :
- Cấm rượu chè, cờ bạc, trai gái làm huyên náo trong quân.
- Cấm đào ngũ, gây kinh động hão, bịa điều họa phúc làm dao động lòng quân.
- Cấm khi ra trận, nghe trống tiến quân mà dùng dằng không tiến, nghe trống dừng quân mà cưỡng lại không lui.
- Cấm thả quân lính xâm phạm cướp bóc của dân.
- Cấm giết chóc hàng quân. Cấm thả chúng để lấy tiền, hoặc che giấu theo tình riêng, không ghi vào sổ .
Ðọc xong, Lợi thở ra :
- Ðội ơn ngài đã tha cho Xí... Nếu không, Lợi lại mất một tướng !
Ðúng vào lễ Trung Thu là ngày Lam Sơn phát hịch xưng Vương. Dọc theo sườn núi, hàng dân lũ lượt rủ nhau, ai tay cũng cầm một cây đuốc. Trên một khoảng đất vạt vào núi rộng có đến chục mẫu, nghĩa quân đã dựng thượng đài, trên sắp chỗ cho Lợi, Hãn, Trãi và đám người hội thề Lũng Nhai cùng một số võ tướng mới cùng Lam Sơn tụ nghĩa. Lê Văn Linh được cử làm lễ quan, khăn đóng áo dài, đốt nhang vái trời khấn đất trong tiếng phèng la tứ phía nổi lên chào mừng. Lúc trăng nhú ngang đầu, tiếng hò reo dội vào vách núi vẳng đến chín tầng mây. Người người nay bật hồng đốt đuốc. Nhìn từ xa, giải núi Lam thắp lửa chạy đến cuối mắt, chập chờn, hùng tráng. Sau một hồi trống ngũ liên, Linh dõng dạc hô :
- Ðại đầu mục, họ Lê, tên Lợi.
Mặc áo thụng bằng nhiễu xanh, Lợi ra vái bàn thờ tổ quốc. Vái xong, Lợi tiến lên vái tứ hướng, nét mặt trang nghiêm. Linh lại đọc:
- Ðệ nhị đại đầu mục, họ Trần, tên Nguyên Hãn.
Hãn tiến ra, cũng làm như Lợi.
- Ðệ tam đại đầu mục, họ Phạm, tên Văn Xảo.
- Ðệ tứ đại nhân, hành khiển họ Nguyễn, tên Trãi.
Lê Văn Linh tiếp tục đọc tên mười tám người hội thề ở Lũng Nhai, nhưng khi đọc đến tên Xí thì không thấy Xí đâu. Nhắc chuyện cây kiếm Thuận Thiên trời cho Lợi và những chiếc lá cây có đục chữ Lê Lợi vi quân, Linh mời Lợi lên cương vị chủ tế.
Tế cáo trời đất xong, Lê Lợi truyền hịch :
Ta,
Phát tích chốn Lam Sơn
Nương mình nơi hoang dã
Ngẫm thế thù há đội trời chung
Thề nghịch tặc khó cùng tồn tại
Ðau lòng nhức óc đã trải năm năm
Nếm mật nằm gai phải đâu một buổi...
Khi đọc đến câu cuối, hàng quân reo lên, tiếng động đến đầu nguồn sông Mã khiến chim muông cả bày vỗ cánh bay lên. Nơi nơi, người ta ca hát. Những bài hát giặm của Ðào Nương ở trại chè lại vang vang báo một thời đang trở dạ. Dân các châu, các sách vật bò, thui trâu. Rượu cần hàng vò mang ra để trên đất.
Quân canh bắt được Xí định đi trốn vì sợ cuộc cờ một còn một mất. Họ mang Xí đẩy cho quì trước mặt Lợi. Lợi bảo :
- Hành khiển đại nhân tha mạng cho mày rồi !
Nói xong, Lợi bắt Xí đọc năm điều quân luật, điều đầu tiên là cấm cờ bạc rượu chè. Nhìn mặt Xí trắng bệch, Lợi thấy cần phải dặn thêm, ghé vào tai thì thầm :
- Này Xí, cứu vật vật trả ơn. Cứu nhân, nhân trả oán. Tao báo cho mày biết : ngày nào tao còn mà Trãi mất một sợi lông chân, ngày ấy tao giết cả nhà mày, nghe rõ chưa !
Nhìn vào mắt Lợi, Xí biết Lợi nói thật. Bụng thót lại, Xí ra trước mặt Trãi xá ba vái.
*
Tin Bình Ðịnh Vương Lê Lợi đã lôi kéo được toàn bộ nghĩa quân các miền bay về đến Ðông Quan như có cánh. Nay Phương Chính thay Lý Bân xử lý quyền Tổng Binh, cho vời tất cả đám quan sai lại. Bọn Sơn Thọ, Mã Kỳ và Trần Trí chủ trương phải quyết liệt giáng một đòn vào đầu não nghĩa quân. Tháng chạp năm Nhân Dần, phối hợp với quân Lão Qua tiến từ phía tây, Trần Trí và Mã Kỳ đem binh tập kích vào Quan Dạ từ phía đông bắc. Gọng kìm hai phía xiết lại, nghĩa quân đối phó khá chật vật, tổn thất nặng nề. Lợi ra lệnh lui về sách Khôi thuộc trấn Thiên Quan, một địa điểm nằm giữa Nho Quan và Thạch Thành. Quân Minh truy kích ráo riết. Nghĩa quân mở huyết lộ chạy về Chí Linh, mười phần chỉ còn ba.
Núi Chí Linh không cao nhưng rất dốc, thế rất thuận lợi cho việc phòng thủ. Hai lần trước về Chí Linh, Lợi đã dự trù tích trữ sắn khô, khoai sấy, gạo, ngô phòng khi có biến. Lần này, Trần Trí cho quân vây chặt dưới chân núi rồi án binh bất động. Tham chính Lương Nhũ Hốt nịnh Trí, bảo ‘‘...đói tất đầu gối phải bò ’’. Quả thế thật. Ðến hết tháng thứ hai, nghĩa quân đói phải đào củ, ăn rễ cây, người nào người nấy mặt mũi xanh như lá rừng. Qua tháng thứ ba, lác đác một vài người chết vì kiệt lực.
Nghĩa quân xì xào :
- Phải phá vòng vây…
- Phá làm sao ? Chỉ cái lỗ mồm… Phá được, đã phá rồi !
- Thế thì chết cả à ? Liều…cứ liều…
- Hờ hờ…Ðói đến chân tay bủn rủn…Liều thế nào ?
- Lạnh quá…Mùa đông năm nay lạnh thật !
- Không, lạnh vì đói đấy ! Hôm qua có một thằng bị đâm lòi ruột. Chỉ vì nó ăn một mình, không chia cho thằng anh ruột nó củ sắn nó đào được …
- Chẳng nhẽ chịu chết…Hay là trốn. Tao nghe giặc nó tha, không giết…
- Nhưng trốn mà không thoát, bọn Thiết Ðột nó có lệnh hạ thủ tại chỗ…Ba ngày trước, đã chém sáu thằng rồi…
- Rễ cây non cũng cạn, tìm cả ngày, ăn chưa lưng bụng đã hết !
- Vật voi vật ngựa mà ăn…
- Chết. Cấm đấy. Cũng tội chém…Giời ơi !
Trong quân, đào binh tìm cách trốn xuống núi ngày một nhiều. Ngay bọn võ tướng như Ngân, Lễ, Sát cũng lặng thinh. Bọn Lê Hào, Nguyễn Xí đòi gặp Lợi. Xí ngập ngừng :
- Thưa Vương công, xin hàng đi thôi...
Lợi quát, giọng run run :
- Bay muốn chúng chém đầu bay à ?
Hào quì xuống rập đầu :
- Nếu không hàng, chẳng chóng thì chày cũng thành ma đói hết...
Ðêm trên núi cao, khí lạnh thấm như đâm kim vào xương tủy. Ngồi cạnh đống lửa, Trãi vẫn lập cập run hai tay thu vào trong tấm áo bông đã sờn rách. Tin Hãn đến cứu, định đánh thủng vòng vây quân Minh, nhưng bị đẩy lui khiến nghĩa quân càng lao đao không còn biết tựa vào đâu. Bỗng Lợi ở đâu tiến lại, im lặng ngồi xuống cạnh Trãi. Hồi lâu sau, Lợi trầm ngâm, tay vê nốt ruồi trên má :
- Bây giờ phải làm gì ?
- Thưa Vương công, phải ăn !
- Ăn gì ?
- Voi, ngựa...
Lợi ngắt :
- Không. Không bao giờ...
Trãi nhẹ nhàng :
- Thưa Vương công, hết người thì voi ngựa giữ làm gì ?
Lợi lại im lặng. Thở dài, Lợi lại hỏi :
- Rồi sau đó ?
Trãi chậm rãi nói từng tiếng một :
- Ra lệnh chém những kẻ xin hàng. Ta không hàng. Ta chỉ tạm hòa với giặc.
- Ngài giúp quả nhân thảo cho bức thư ... cầu hòa, mai ta sai Lê Trăn và Lê Vấn xuống núi.
Ðêm hôm đó, Trãi ngẫm nghĩ đến hình ảnh cây tre, gặp gió dữ thì mềm, cong mình đợi cho lặng gió thì tre lại thẳng. Chàng mềm mỏng, lấy nhân nghĩa là cái lý để xin Trần Trí lui binh. Trãi mài mực rồi viết :
‘‘... Phàm vật hễ gặp bất bình thì kêu, cho nên người ta chịu oan khốc là bởi thiện ác không minh, thực dối không rõ. Các quan trấn thủ phủ vệ vâng mệnh Thiên triều chăn nuôi dân chúng không khác gì cha mẹ nuôi con, ai là không hết lòng thương yêu. Nay tôi mang tội vô cô oán ức, ngậm tình oan khổ, đã không được lượng trên thương xót, lại còn đem quân đến đánh khiến cho dân một phương không được ở yên. Ðó tuy là tội của tôi, nhưng do quan trên vỗ yên bao dung không hết đạo vậy... ’’.