Quỷ cái vận đồ Prada - Chương 12-P3

Sau khi Miranda quay về văn phòng được mấy tuần, Emily được bà đưa danh sách các nhà tạo mốt mà bà muốn xem catalog : những người thuộc diện xét chọn vội cuống lên để nộp sách cho bà, trong khi ảnh chụp thời trang đôi khi còn chưa kịp rửa chứ chưa nói đến chuyện tút sửa và tập hợp thành sách sưu tập mẫu. Trong lúc đó toàn bộ nhân sự của Runway đứng nghiêm sẵn sàng đợi bộ catalog. Đứng đầu dĩ nhiên là Nigel, với nhiệm vụ thẩm định chung và chọn đồ riêng cho Miranda. Nếu cần, ông lấy thêm một người ở bộ phận phụ kiện giúp ông chọn giày và túi tương thích, đôi khi cả một biên tập viên thời trang cử đến để thống nhất kết luận, nhất là khi có hàng trọng lượng hơn như măng tô lông thú hay áo dài dạ hội. Khi các ban phòng đã tập hợp tất cả những hàng được đặt thành một tổng thể thuyết phục thì thợ may riêng của Miranda đóng đô tại Runway mấy ngày liền để sửa những gì cần thiết. Không ai lấy được đồ ra nữa vì Jeffy đã dọn toàn bộ kho quần áo để Miranda và thợ may chiếm toàn bộ phòng. Lần thử áo đầu tiên, tình cờ tôi đi qua và nghe Nigel rống lên: “MIRANDA PRIESTLY! VỨT NGAY CÁI GIẺ RÁCH ẤY XUỐNG! MẶC ĐỒ ĐÓ BÀ TRÔNG NHƯ CON NGỢM, NHƯ MỘT CON CAVE RẺ TIỀN!” Tôi dán tai vào cánh cửa để nghe – liều vô cùng vì cửa có thể bật ra bất cứ lúc nào – cốt chỉ để chứng kiến cảnh bà ta hạ nhục Nigel theo kiểu rất riêng không ai bắt chước được. Thay vào đó, tôi không nghe thấy gì ngoài lời làu bàu đồng ý và tiếng quần áo sột soạt kéo qua đầu.

Đến giờ thì tôi đã phục vụ Miranda được một thời gian, dường như niềm hân hạnh được đặt quần áo mới cho bà sẽ chuyển sang tôi. Mỗi năm bốn lần, chính xác như máy đồng hồ, bà giở xem các catalog hàng mẫu, tựa như chúng chỉ in ra cho riêng bà, và chọn đồ bộ của Alexander McQueen và quần của Balenciaga như người ta chọn rau ở siêu thị. Một mảnh giấy vàng dính vào chiếc quần vải thun cắt bó của Fendi, một mảnh nữa vào giữa bộ đồ của Chanel, mảnh thứ ba với chữ “KHÔNG” to đùng dán đè lên chiếc áo quây bằng lụa. Cứ thế tiếp tục, trang này qua trang khác, mảnh giấy này tiếp mảnh giấy kia, cho đến khi toàn bộ trang phục cho mùa tới được bà chọn xong, trực tiếp từ sàn diễn – nhiều thứ thậm chí còn chưa may xong.

Tôi đã quan sát Emily khi fax đơn đặt hàng cho Miranda đến các nhà tạo mốt khác nhau. Cột để điền cỡ và màu bao giờ cũng để trống. Ai biết giá trị Manolo của mình thì cũng phải biết Miranda ưa loại nào. Nhưng chỉ chọn đúng cỡ thì chưa xong – khi mọi thứ chuyển tới Runway, chúng đều phải cắt ngắn hay chiết bớt để trông như đồ may đo. Khi toàn bộ trang phục đã đặt, gửi đến, chữa lại cho vừa khít và được lái xe riêng chở bằng Limousine đến nhà thì Miranda mới nhả đồ của mùa cũ ra: lúc văn phòng chất đầy túi rác đựng đồ Yves, Celine và Helmut Lang. Đồ cũ nhất từ bốn đến sáu tháng, giỏi lắm mới được mặc một, hai lần hoặc chưa bao giờ đụng đến người, và tất cả đều thời trang kinh khủng đến nỗi đôi khi cũng chưa có mà mua ở đa số các cửa hàng. Nhưng đối với Miranda, nếu đó là đồ của mùa trước thì chúng chỉ có giá trị như đồ ăn thiu.

Năm thì mười họa tôi cũng kiếm được thứ mặc vừa, một chiếc áo quây hay áo khoác ngoại cỡ, nhưng nói chung không có nhiều triển vọng vì mọi thứ đều cỡ 32. Thường là chúng tôi phân phát đồ này đến người quen có con gái dưới 12 tuổi là những người duy nhất khả dĩ mặc vừa. Tôi tưởng tượng ra cảnh những đứa bé gái với thân hình con trai vung vinh đi lại trong chiếc váy Prada hay áo hai dây quyến rũ của Dolce & Gabbana. Nếu thấy được một thứ gì thực sự thời thượng thì tôi giải phóng nó khỏi túi rác và cất xuống dưới bàn, đợi đến khi lén lút đem ra được khỏi văn phòng. Chỉ cần đảo nhanh vài lần vào trang eBay hay tạt vào mấy cửa hàng đồ cũ sang trọng ở đại lộ Madison là tôi đã cải thiện đồng lương còm của mình được chút đỉnh rồi. Không phải là ăn trộm, tôi nghĩ thế, mà là sử dụng tài sản được giao phó một cách có ích.

Miranda còn gọi điện sáu cuộc nữa giữa sáu và chín giờ tối – đối với bà thì nửa đêm là ba giờ sáng – để sai nối máy với một số người đã đến Paris từ lâu. Tôi hờ hững thi hành, không có gì trục trặc lớn, rồi xếp đồ đạc để chuồn nhanh trước khi điện thoại réo chuông. Mãi đến khi mệt mỏi khoác măng tô lên người, tôi mới chợt thấy mảnh giấy mà tôi đã dán cạnh màn hình để không thể quên được – nhưng rồi vẫn cứ quên: “GỌI ĐIỆN CHO A, 3.30 CHIỀU”. Đầu óc tôi chợt chao đảo, kính áp tròng đã từ lâu khô quắt lại thành hai miếng thủy tinh nhỏ tí cứng quèo, và bây giờ còn thêm tiếng mạch đập thình thịch trong đầu. Không phải đau nhói, chỉ là cảm giác khó ở ngột ngạt không rõ ở đâu, nhưng lờ mờ, nghiệt ngã, ngày càng rõ hơn cho đến khi nó thương hại khiến tôi ngất xỉu đi hay làm vỡ bung đầu ra. Mê muội vì những cuộc điện thoại xuyên lục địa và cuống cuồng lo sợ mà tôi quên dành ba mươi giây để làm cái việc Alex nhờ. Đơn giản là quên bẵng đi một việc dễ dàng như gọi lại cho một người chua bao giờ cần đến mình chuyện gì cả.

Tôi ngồi xuống bên bàn trong văn phòng quạnh quẽ và tối đèn và cầm lấy ống nghe còn nhớp dính mồ hôi bởi cuộc nói chuyện với Miranda cách đây ít phút. Điện thoại ở nhà Alex rung chuông rất lâu rồi bật sang ghi âm, nhưng gọi di động thì Alex bắt điện ngay.

“Chào em.” Anh nhìn số máy hiện lên và biết tôi gọi. “Hôm nay ra sao?”

“Như mọi hôm thôi, không quan trọng. Alex, em muốn xin lỗi là lúc ba rưỡi không gọi lại cho anh. Em không nên bắt đầu giải thích thì hơn, ở đây như một trại điên, bà ấy liên tục gọi điện và…”

“Thôi được rồi, không có gì ghê gớm cả. Em này, hiện tại không tiện lắm. Mai em gọi anh được không?” Có vẻ như anh không tập trung, giọng anh nghe xa lắc như gọi từ bốt điện thoại công cộng ở một làng ven biển đầu kia thế giới.

“À, vâng, nhưng mọi việc okay cả chứ? Anh muốn nói nhanh nhanh cho em biết anh định nói gì lúc chiều à? Em thực sự lo là có chuyện không ổn.”

Anh im lặng một lát rồi nói: “Nhưng thật ra anh không thấy em có vẻ lo lắng. Anh nhờ em một lần duy nhất là gọi cho anh vào một giờ thuận tiện cho anh – chưa kể là sếp em đang ở nước ngoài – nhưng em không làm được trước sáu tiếng. Không thực sự là dấu hiệu cho thấy em quan tâm, đúng không?” Giọng anh không có chút mỉa mai hay chê trách, anh chỉ tổng hợp các sự kiện.

Tôi cuốn dây điện thoại quanh ngón tay đến khi nghẽn máu, khớp xương lồi lên và đầu ngón tay trắng bợt, lưỡi tôi chợt có vị mặn: tôi đã cắn môi đến bật máu.

“Không, không phải em quên,” tôi nói dối để tránh lời cáo trạng chưa nói ra, “em chỉ không rỗi lấy một giây, và không muốn vừa nhấc máy lên gọi đã bị cắt ngay. Em muốn nói là bà ấy gọi em chiều nay tối thiểu hai chục lần, lần nào cũng có chuyện khẩn cả. Emily về nhà lúc năm giờ và để em lại một mình với chiếc điện thoại. Miranda thì gọi điện không nghỉ lấy một phút. Cứ mỗi lần em định gọi cho anh thì bà ấy lại xuất hiện ở máy kia. Em, anh biết đấy…”

Những lời xin lỗi như bắn súng máy nghe rất thảm hại, ngay cả với tôi, nhưng tôi không ngừng lại được. Alex biết rõ cũng như chính tôi ở chỗ đơn giản là tôi quên bẵng việc này. Không phải vì anh không quan trọng trong tôi, mà vì tất cả những gì không liên quan tới Miranda đột nhiên vô nghĩa khi tôi vào đến văn phòng. Ở khía cạnh nào đó, bản thân tôi cũng không hiểu nổi. Lại càng không thể giải thích cho người ngoài, nói gì đến chuyện hy vọng họ sẽ thông cảm là thế giới này ngoài chẳng còn gì quan trọng nữa. Đặc biệt phức tạp khi đó chính là chuyện mà tôi ghét nhất, huống hồ là những người quan trọng nhất đời tôi.

“Này, anh phải quay ra chỗ Joey và hai đứa bạn nó kẻo chúng nó phá tan nhà cửa ra mất.”

“Joey? Anh đang ở Larchmont à? Bình thường anh có phải trông nó vào thứ Tư đâu ? Mọi việc ổn cả chứ? ” Hy vọng với câu hỏi thăm mà tôi nghĩ là thân thiện này sẽ đánh lạc hướng anh khỏi chuyện rành rành là sáu tiếng liền tôi không nghĩ đến gì khác ngoài công việc của mình. Anh sẽ kể cho tôi nghe là mẹ anh bận gì đó ở chỗ làm, hoặc phải đi họp phụ huynh, và người trông trẻ mọi hôm không thể đến được, Alex không có thói than phiền, nhưng ít nhất cũng kể cho tôi nghe chuyện gì xảy ra.

“Ổn cả, ổn cả, mẹ anh chỉ phải đi họp gấp, Andy, bây giờ anh không thể nói lâu hơn. Anh chỉ định báo cho em một tin mừng, nhưng em không gọi lại,” anh nói không chút biểu cảm.

Dây điện thoại thắt chặt quanh ngón giữa và ngón trỏ đến nỗi máu đập thình thịch. “Em xin lỗi,” tôi không nói được gì hơn. Đúng, anh nói đúng, tôi thật vô cảm khi quên gọi lại cho anh, nhưng bây giờ thì tôi quá mệt mỏi để nghĩ ra chiến lược tự vệ phức tạp nào khác. “Alex, em xin anh, đừng làm thế. Anh có biết là từ bao lâu rồi không có ai đem lại cho em một tin mừng trong điện thoại không? Anh nói đi!” Tôi biết là anh không thể từ chối một lời đề nghị hợp lý như thế, và quả nhiên.

“Có gì kinh khủng lắm đâu. Anh tổ chức xong mọi thứ cho cuộc họp mặt bạn cũ đầu tiên của chúng mình.”

“Gì cơ? Thật hả? Chúng mình sẽ đi?” Thỉnh thoảng tôi vẫn hay hỏi anh – một cách hờ hững và qua loa, như tôi cố ra vẻ thế - liệu chúng tôi có cùng nhau đến cuộc họp mặt cựu sinh viên, nhưng Alex không trả lời chắc chắn, một chuyện khá lạ, và không muốn quyết định rõ. Tuy hãy còn quá sớm để lập kế hoạch, nhưng khách sạn và nhà hàng ở Providence thường bị đặt chỗ hết trước vài tháng. Cuối cùng, trước đây vài tuần tôi quên đề tài này đi và nghĩ rồi cũng sẽ tìm được chỗ nào đó. Còn Alex hẳn nhiên là nhận ra tôi cực kỳ muốn cùng anh đến đó, và đã lo hết mọi chuyện.

“Ừ, chuyện xong hết rồi. Mình có một chiếc xe thuê, một chiếc jeep nhé, anh đã đặt một phòng ở Biltmore.”

“Biltmore! Anh không đùa đấy chứ? Anh lấy được phòng ở Biltmore? Không thể tin nổi.”

“Em vẫn hay nói em muốn ở đấy một lần mà, thế là anh thử. Thậm chí anh còn đặt một bàn lớn cho mười người ăn sáng ở Al Forno. Anh và em có thể cùng lúc mời các bạn mình đến.”

“Không thể tin nổi. Anh đã lo mọi thứ xong cả rồi?”

“Tất nhiên. Anh cũng muốn kể cho em và chứng kiến em nhảy cẫng lên ra sao, nhưng em chắc là quá bận bịu nên không gọi lại được.”

“Alex, em vui quá đi mất. Em không biết phải nói gì, và không thể tin là anh đã tổ chức xong mọi thứ. Tha lỗi cho em lúc nãy, nhưng em chỉ muốn tháng Mười đến ngay thôi. Mình sẽ có một kỳ cuối tuần tuyệt vời, đó là công của anh.”

Chúng tôi còn nói mấy phút nữa, và khi đặt máy thì anh không có vẻ bực mình nữa. Bù lại thì tôi không muốn động đậy tay chân vì mệt. Kết quả của mọi nỗ lực để dàn hòa với anh, để tìm lời thuyết phục anh rằng không phải vì coi thường anh mà tôi không gọi điện, song cũng để tỏ lòng hàm ơn và vui sướng. Tôi không nhớ đã ra đến ô tô ra sao và có thân thiện chào hỏi Mr. Fisher ở tiền sảnh hay không. Tôi kiệt quệ đến tận xương tủy, kiệt quệ đến nỗi lại thấy lòng mình gần như thanh thản, và nhẹ cả người khi thấy cửa phòng Lily đã đóng, không thấy cả vệt đèn dưới cửa. Tôi ngẫm nghĩ có nên gọi đồ ăn, nhưng nghĩ đến chuyện đi tìm thực đơn và điện thoại đã thấy ớn – lại một bữa ăn bị bỏ qua.

Thay vì ăn, tôi ngồi phệt xuống ban công sứt sẹo bê tông và không bàn ghế, ngon lành rít một điếu thuốc. Tôi không còn đủ sức mà phả khói ra, cứ để nó tự bay khỏi miệng. Một lúc sau có tiếng mở cửa và Lily loẹt quẹt ra hành lang. Tôi nhanh tay tắt đèn và ngồi trong bóng tối. Nói luôn mồm mười lăm tiếng liền, thế là đủ rồi.