Lộc Đỉnh Ký - Hồi 235-P2

Đồng thời phái kỵ binh chạy về Bắc Kinh báo tin thắng trận lên Hoàng đế.Lúc ra đi, Vi Tiểu Bảo căn dặn hai tướng Lang Thản và Lâm Hưng Châu không
được đào giếng hay đào đường hầm trong thành Nhã Tát Khắc.
Đại quân rầm rộ nhằm hướng Nam tiến phát.
Vi Tiểu Bảo cung bọn Sách Ngạch Đồ, Bằng Xuân đóng ở ái Huy. Tát Bố Tố
lãnh một cánh quân đóng ở Hô Mã Nhi.
Vi Tiểu Bảo nhàn rỗi không có việc gì làm, chỉ uống rượu đánh bạc vui chơi,
bất tất phải tường thuật.
Gã sai hàng binh La Sát mặc quân phục Thanh binh và phái người dạy tiếng
Trung Hoa, cần cho chúng thuộc lòng những câu "Nga hoàng vạn tuế, vạn tuế, vạn
tuế"... "Trung Quốc Hoàng đế đức bì tứ hải, uy chấn tuyệt vực"... "Vạn tuế gia
thần thánh văn võ, Hoàng ân hạo đăng"... "Thánh Thiên tử vạn thọ vô cương"...
Đó toàn là những câu cầu chúc và phụng sự nhà Vua.
Sau khi bọn hàng binh La Sát thuộc kỹ những câu này rồi, Vi Tiểu Bảo phái
binh đưa chúng về Bắc Kinh và dặn chúng khi đi qua những đường phố tại kinh
thành phải hô lớn những khẩu hiệu đã thuộc kỹ. Nhất là lúc vào triều kiến Vua
Khang Hy càng phải hô thật lớn. Gã bảo chúng: Tên nào hô càng lớn, đức Hoàng
thượng càng ban thưởng nhiều.
Sau hơn một tháng, Vua Khang Hy ban chiếu thư đến khen ngợi nhiệt liệt các
tướng sĩ xuất chinh.
Vi Tiểu Bảo được thăng tước Nhị Đẳng Lộc Đỉnh Công. Kỳ dư các tướng sĩ
đều được thăng thưởng.
Viên Khâm sai truyền chỉ lại giao cho Vi Tiểu Bảo một cái hộp gỗ niêm
phong sơn đỏ nói là của đức Hoàng thượng ngự tứ.
Vi Tiểu Bảo dập đầu tạ ơn, mở hộp gỗ coi, gã không khỏi ngẩn người.
Nguyên trong hộp gỗ đựng một cái bát ăn cơm bằng Hoàng kim, trong bát
khắc bốn chữ "Gia quan tấn tước" phảng phất giống như cái bát mà Thi Lang đã
tặng gã ngày trước. Có điều những hoa văn và tự tích bị sây sứt thì đã được tu
bổ hoàn chỉnh.Vi Tiểu Bảo nhớ lại cái bát vàng này ngày trước để ở Bá Tước phủ trong hẻm
Đông Mạo. Đêm hôm ấy, gã hoang mang chạy trốn không kịp đem theo. Sau khi
ngẫm nghĩ hồi lâu, gã hiểu liền ra lý lẽ.
Đêm hôm ấy chắc là sau khi nổ súng bắn vào Bá Tước Phủ, đội quân Tiền
Phong Doanh nhặt nhạnh những đồ vật còn lại, cả những thứ bị sứt mẻ cũng kê
vào thành đơn phúc trình Hoàng thượng.
Cái bát vàng này tuy đã vỡ nhưng chưa đến nỗi tan tành. Nhà Vua liền sai thợ
hàn gắn lại và bây giờ ban cho gã.
Dĩ nhiên nhà Vua muốn nhắn nhủ gã: Cái bát vàng gã đã bị sứt mẻ một lần,
phen này phải giữ gìn cẩn thận đừng để nó phải tan tành.
Vi Tiểu Bảo nghĩ vậy rồi tự nhủ:
- Tiểu Hoàng đế đã dùng nghĩa khí đối đãi với ta thì ta cũng phải có đi có
lại, không đào hầm hố để khỏi tổn thương long mạch mà gây tai hại đến vận mạng
của ngài.
Qua mười mấy bữa nữa, Vua Khang Hy lại ban thượng dụ tới nơi. Lần này ngài
nặng lời quở trách, phán rằng: Vi Tiểu Bảo có những hành động phá quấy vì gã
bắt hàng binh La Sát hô khẩu hiệu "Vạn thọ vô cương" là một điều rất đáng buồn.
Trong thượng dụ nói:
- "Bậc nhân quân giữ việc chăn dắt nhân dân phải thể theo lòng trời, thương
yêu bách tính".
"La Sát tuy là nước Man Di, xa với vương hóa, nhưng dân tộc nước này cũng
là người. Chúng đã quy thuận hàng phục, thì không thể khinh nhờn vũ nhục họ
được".
"Ngươi đã làm đại thần nên can gián quân thượng những điều tàn tệ, thi hành
nhân chính tới muôn dân".
"Nếu trẫm có ơn huệ với trăm họ thì dù chẳng sống lâu cũng là bậc minh
quân. Bằng trẫm kiêu sa tàn bạo thì "Vạn thọ vô cương" chỉ tổ làm khổ thiên hạ".
"Kẻ đại thần xu nịnh quân thượng, đưa chúa vào hành vi bất đức là tội nặng
lắm. Ngươi phải nhớ mà răn mình".Chuyến này Vi Tiểu Bảo bợ đít ngựa mà lại vỗ vào chân để nó đá hộc máu
mồm.
Nếu ở địa vị người khác tất lấy vụ này làm lo âu, buồn bã. May ở chỗ gã là kẻ
mặt dầy, vẫn chẳng quan tâm. Trước mặt quan Khâm sai truyền chỉ, gã tự mắng mình
tội thật đáng chết, nhưng trong lòng lại tự nhủ:
- Trong thiên hạ còn ai là người không ăn phỉnh? Nhất định vụ này bọn quân
La Sát thốt lời Trung Quốc không được hoàn hảo, khiến tiểu Hoàng đế nghe
chẳng ra sao nên mới bực mình.
Gã liền kêu mấy tên sư gia đã dạy Hoa ngữ cho bọn quân La Sát đến thống
mạ một hồi.
Sau đó gã lại cùng bọn chúng mở cuộc đánh bạc. Gã gieo mấy bàn xúc xắc
rồi là bao nhiêu lời huấn giới của Nhà Vua bay lên chín tầng mây hết.
Thì giờ thấm thoát, đông qua xuân tới, Vi Tiểu Bảo ở thành ái Huy tuy được
nhàn hạ, nhưng thường thường nhớ tới bọn A Kha, Mộc Kiếm Bình mấy người thê tử.
Thỉnh thoảng gã lại sai thân binh đưa đồ về nhà. Sáu vị phu nhân cũng gửi ra y
phục cùng phẩm vật. Ai cũng biết gã không hiểu chữ nghĩa nên không gửi gia thư
mà chỉ dặn lời là trong nhà đều bình yên cả, mong mỏi Đại soái ca khúc khải hoàn
về kinh cho sớm.
Một hôm, có thượng dụ ban ra, khâm mạng cho Vi Tiểu Bảo và Sách Ngạch
Đồ làm những đại thần trong cuộc nghị hòa để cùng sứ thần nước La Sát kiềm
đính hòa ước.
Trong kinh còn phái đến bốn nhân vật giúp đỡ công cuộc này là Hán quân
Hoàng Kỳ Đô thống Đông Quốc Cương, Hộ quân thống lĩnh Mã Lạt, Thượng thư A
Nhĩ Ni và Tả đô Ngự sử Mã Tề.
Đông Quốc Cương tuyên đọc thượng dụ xong, lại lấy ra một đạo công văn
đọc tiếp.
Đạo công văn này là Quốc thư của hai vị Sa hoàng La Sát gửi lên Vua Khang
Hy. Tờ quốc thư đã do hai vị truyền giáo sĩ người Hà Lan ở Bắc Kinh dịch ra Hán
văn.
Bức quốc thư như sau:"Cẩn phụng thượng:
Đức Đại thánh Hoàng đế.
Ngồi chơi hoa hạ, ảnh hưởng bao trùm hoàn vũ, hướng dẫn tôi hiền trong
cuộc phân chia cương thổ, cai trị muôn dân. Trung Quốc gồm thâu Mãn Hán, oai
danh lừng lẫy bốn Phương.
Nguyên tiền triều A Liệt Khắc Tịch Mễ Hàn ở hạ quốc đã phái bọn Ni Quả Lai
qua thiên triều mưu việc giao hảo cho hai nước.
Kẻ sứ thần không am tường điển lễ Trung Quốc, cử chỉ có điều thô lỗ, ngữ
ngôn lại thiếu văn hóa, đành trông vào đức độ khoan hồng của thượng quốc.
Cả việc ca tụng Hoàng đế cũng không khỏi phạm vào thất thể, vì hạ quốc ở
nơi hẻo lánh xa xăm, vương hóa khó bề phổ cập. May mà thượng quốc cũng
không hạch tội.
Ngày trước Hoàng đế đã gửi quốc thư, nhưng hạ quốc không ai biết chữ,
chẳng hiểu thánh ý ra sao.
Sau bọn Ni Quả Lai trở về, Hạ quốc hỏi ra mới biết thượng quốc chất vấn về
vụ bọn Cán Đặc Mộc Nhĩ bôn đào qua hạ quốc. Trong quốc thư còn đề cập đến
những việc quấy nhiễu biên thùy.
Mới đây hạ quốc được tin Hoàng đế hưng binh đến vùng biên cảnh, khiến
tình giao hảo hai bên bị tổn thất.
Nếu dân gian hạ quốc ở chốn biên cương quả đã gây hấn làm càn thì thiên
triều chỉ cần minh thị là hạ quốc bắt về nghiêm trị ngay, hà tất phải dấy động can
qua?
Nay hạ quốc phụng tiếp chiếu chỉ mới rõ đầu đuôi, liền hỏa tốc hạ lệnh cho
tướng sĩ không được giao binh.
Cung thỉnh thiên triều minh xét những tên nào đã gây họa loạn để hạ quốc
đem ra chính pháp.
Ngoài việc phái sứ thần quyết định biên giới, hạ quốc lại sai bọn Phật Nhi
Ngưu Cao, Nghi Phiên, Pháp Nga La Ngõa mang thư đi suốt ngày đêm để dâng
thượng quốc.Xin thiên triều rút cuộc bao vây Nhã Tát Khắc. Nếu còn xẩy chuyện lôi thôi,
cứ phái sứ thần đưa thư hiểu dụ là hai nước vĩnh viễn giữ cuộc hòa mục.
Một vị đại thần ở thượng quốc là Vi Tiểu Bảo các hạ năm trước có quen biết
Hoàng tỷ ở hạ quốc là Nhiếp Chính Nữ Vương Tô Phi á điện hạ. Vi đại nhân lại tới
kinh thành Mạc Tư Khoa giúp việc dẹp loạn lập nên công lớn ở hạ quốc. Đây thật
là một ơn huệ của thượng quốc ban cho. Chúa tôi hạ quốc không bao giờ quên
ơn đức này.
Kính dâng trọng lễ trên Đại thánh Hoàng đế bệ hạ. Thứ nhì là trọng lễ phụng
tặng Vi Tiểu Bảo đại thần các hạ, để tỏ lòng thành tín hòa mục của hạ quốc".
Đông Quốc Cương đọc quốc thư rồi, sư gia liền đem những ý tứ trong thư
giải thích cho Vi Tiểu Bảo cùng chúng tướng nghe.
Đây là một thông lệ ở trong quân, vì những văn thư qua lại thường gặp chữ
nghĩa sâu xa khó hiểu mà số đông binh tướng lại không biết chữ. Dù nhiều người
đã đọc sách mấy năm, nhưng kiến thức vẫn còn kém cỏi. Những văn kiện trong
quân quan hệ đến quân cơ đại sự, nếu xảy chuyện hiểu lầm sẽ đưa tới hậu quả
cực kỳ nghiêm trọng. Vì thế mà quân chế nhà Mãn Thanh phải đặt sư gia vào việc
giải thích văn thư.
Đông Quốc Cương nói:
- Vị Nhiếp Chính Nữ Vương La Sát vẫn nhớ mối tình cố cựu với Vi đại soái,
đưa tặng rất nhiều lễ vật. Đức Hoàng thượng phải tiểu đệ đêm hết tới đây để
giao lại cho đại soái thu nhận.
Vi Tiểu Bảo chắp tay đáp:
- Đa tạ, đa tạ!
Gã nói tiếp:
- Người La Sát không hiểu lễ tiết, chẳng nhún mình là lòng thành lễ bạc lại
khoe khoang đồ lễ quý trọng. Phần lễ trọng nhất dâng lên Hoàng thượng, còn
phần lễ trọng thứ hai gì đó đưa tặng tiểu đệ. Họ nói thế mà không sợ người ta
cười cho.
Đông Quốc Cương nói:- Vi đại soái phái quân giải bọn người đầu hàng nước La Sát về kinh thành,
đức Hoàng thượng thân hành thẩm vấn. Ngài phát giác trong bọn tiểu tốt có một vị
đại quan La Sát trà trộn vào...
Vi Tiểu Bảo "ủa" lên một tiếng, nhảy bổ lên hỏi:
- Có chuyện đó ư?
Đông Quốc Cương đáp:
- Người này thật giảo quyệt! Hắn trà trộn vào trong đám tiểu tốt, nhất thiết
không động thanh sắc, hôm ấy Hoàng thượng thẩm vấn bọn người đầu hàng đã sai
một vị giáo sĩ Hà Lan làm thông ngôn. Sau Hoàng thượng nói mấy câu Lạp Đinh (La
Tinh) với giáo sĩ. Trong bọn người La Sát đầu hàng có một tên tiểu binh đột nhiên
lộ vẻ khác lạ. Hoàng thượng liền hỏi có phải hắn hiểu tiếng Lạp Đinh không, nhưng
hắn chỉ lắc đầu. Hoàng thượng lại dùng tiếng Lạp Đinh ra lệnh: •Đem tên tiểu
binh này ra chém đầu!•. Hắn sợ hãi thất sắc, quỳ xuống năn nỉ xin tha và thú
nhận có hiểu tiếng Lạp Đinh.
Vi Tiểu Bảo hỏi:
- Tiếng Lạp Đinh là thế nào? Có phải người La Sát khi lôi bọn tráng đinh đi
vận tải quân nhu thì nói thứ tiếng này? Sao Hoàng thượng lại hiểu được ngôn ngữ
đó?
Đông Quốc Cương đáp:
- Tiểu đệ cũng không hiểu đạo lý vụ này. Khi nào đại soái có dịp bái kiến
Hoàng thượng khẽ dập đầu xin ngài giải thích cho.
Vi Tiểu Bảo gật đầu hỏi:
- Hoàng thượng xử trí với hắn ra sao?
Đông Quốc Cương đáp:
- Người đó không thể dấu diếm được, phải thổ lộ hết chân tình. Tên hắn là á
Nhĩ Thanh Tư Cơ, làm Đô tổng quản hai thành Ni Bố Sở và Nhã Tát Khắc.
Mọi người nghe nói không khỏi giật mình kinh hãi, bất giác •ủa• lên một
tiếng.Vi Tiểu Bảo hỏi:
- Thế ra chức quan của thằng cha đó lớn lắm ư?
Đông Quốc Cương đáp:
- Phải rồi! Những quan chức mà nước La Sát phái đến mặt Đông, địa vị hắn
lớn hơn hết. Hôm thành Nhã Tát Khắc bị hạ, hắn cải trang làm tên tiểu tốt nên
không ai nhận ra được.
Vi Tiểu Bảo lắc đầu cười nói:
- Ngày hạ thành Nhã Tát Khắc thì người La Sát từ Đại tướng cho đến tiểu tốt,
từ quan lớn cho đến quan nhỏ, nhất thời đều bị lột trần như nhộng. Ngó lui ngó
tới ai cũng như ai, trong mình chẳng còn tý gì để phân biệt. Như vậy thì vụ này
không nhận ra tên đại quan La Sát này cũng không phải là lỗi ở bọn tiểu đệ.
Chúng tướng nổi lên tràng cười ha hả.
Mọi người liền thuật lại tình hình hôm đánh phá thành Nhã Tát Khắc cho Đông
Quốc Cương nghe.
Đông Quốc Cương cười nói:
- Té ra là thế. Như vậy quả không trách ai được.
Lão lại kể tiếp:
- Đức Hoàng thượng phán: Vi Tiểu Bảo bắt được Đô tổng quản của nước La
Sát trông coi hai thành Ni Bố Sở và Nhã Tát Khắc là một công trạng rất lớn. Đáng
tiếc y tưởng người này cũng là tên tiểu tốt tầm thường. Y đã phạm vào tội làm
việc hồ đồ, vậy công kia chuộc lại lỗi này là xong. Việc đó thành ra vô thưởng vô
phạt.
Vi Tiểu Bảo nói:
- Đức Hoàng thượng cầm cân nảy mực rất đúng. ¥n điển của ngài khiến cho
bọn nô tài chúng tôi muôn vàn cảm kích.
Đông Quốc Cương nói:
- Đức Hoàng thượng thẩm vấn á Nhĩ Thanh Tư Cơ liên tiếp sáu ngày liền.
Chẳng những ngài biết hết về quân chính đại sự nước La Sát, mà cả việc phân chiacương vực, phong tục tập quán, thổ sản địa Phương ngài cũng hiểu rõ một cách tỷ
mỷ. Đức Hoàng thượng của chúng ta quả được trời ban cho tài trí thông minh khác
đời. Ngài chỉ biết qua thái độ của á Nhĩ Thanh Tư Cơ mà phát hiện ra chuyện bí
mật.
Lão nhìn Vi Tiểu Bảo vừa cười vừa nói tiếp:
- Theo lời Vi đại soái thì á Nhĩ Thanh Tư Cơ lúc bị bắt cũng thân thể trần
truồng như mọi người. Ai ngờ hắn vẫn dấu được văn kiện bí mật.