Tuyết - Chương 14 - Phần 02


Ông đứng bật dậy, tựa hồ có ai chĩa súng vào mình làm mọi người quanh bàn phát hoảng. "Đâu?" Turgut Bey hét lên như thấy vũ khí chĩa vào họ. 

"Tôi không sợ. Chẳng có gì đe dọa nổi tôi cả." Hande nói một mình. Nhưng như mọi người, cô cũng nhìn vào mặt Ka để đoán ra mối nguy hiểm đến từ hướng nào. 

Mấy năm sau Serdar Bey sẽ kể lại với tôi rằng mặt Ka lúc đó trắng bệch như vôi. Song trông ông không giống một người sắp lăn quay ra vì sợ hay vì chóng mặt mà như một người trên tột đỉnh hạnh phúc. Bà giúp việc còn kể lại kịch tính hơn rằng trong phòng lóe lên một tia sáng làm mọi vật rực lên trong ánh sáng lấp lánh. Trong mắt bà, Ka lúc đó tắm mình trong một vầng hào quang thần thánh. Hình như lúc đó có ai đó trong phòng nói: "Chắc ông ấy lại nhận được một bài thơ", làm mọi người còn phản ứng mãnh liệt hơn là bị chĩa súng vào người. Sau này Ka sẽ thuật lại chuyện này điềm đạm hơn trong cuốn vở đem theo người, trong đó ông so sánh không khí chờ đợi căng thẳng trong phòng với khoảnh khắc mong mỏi đầy sợ hãi trong những buổi gọi hồn xưa kia. Cách đây hai mươi lăm năm, bà mẹ béo mập sớm góa bụa của một người bạn chúng tôi có tổ chức những buổi gọi hồn như vậy ở nhà bà trong một ngõ nhỏ ở Nişantaşi. Người tham gia là mấy bà nội trợ bất hạnh khác, ngoài ra còn thêm một nhạc công dương cầm bị liệt ngón tay, một ngôi sao màn bạc nóng tính đã có tuổi (chúng tôi quen hỏi "mụ ấy có đến không?"), cô em gái của bà (cứ liên tục lăn đùng ra ngất), một vị tướng về hưu (ưa tán tỉnh bà diễn viên), cậu bạn của chúng tôi (khẽ mở cửa cho chúng tôi luồn vào phòng khách), Ka và tôi.Trong những lúc căng thắng chờ đợi, bao giờ cũng có một người kêu lên: "Lạy hồn, hồn đang ở đâu, hãy hiện lên đi!" Rồi im lặng kéo dài, cho đến khi có tiếng gõ hầu như không nghe thấy được, tiếng ghế kẽo kẹt, tiếng rên rỉ, đôi khi là tiếng đá thô bạo vào chân bàn. Rồi một người kinh hãi thốt lên: "Hồn đến rồi." Nhưng Ka không xử sự như một người mục kích hồn ma, ông đi ra phía cửa bếp, mặt ông đầy vẻ mãn nguyện. 

"Ông ấy uống nhiều quá." Turgut Bey nói. "Đỡ ông ấy đi chứ?", ông nói như thể Ipek lúc đó đã chạy đến bên Ka là vì mệnh lệnh này. Ka thả người xuống chiếc ghế đẩu cạnh cửa bếp, rút cuốn vở và bút trong túi ra. 

"Tôi không viết được khi mọi người ngồi nhìn." ông nói. 

Ipek nói: "Em đưa anh ra phòng sau." 

Cô đi trước, Ka theo chân cô đi qua nhà bếp thơm phức - Zahide đang đổ mật lên bánh Kadayif. Họ qua một phòng lạnh ngắt vào một gian tranh tối tranh sáng tận phía cuối nhà. 

"Ở đây anh có viết được không?"Ipek hỏi và bật đèn. 

Ka nhìn căn phòng sạch sẽ và hai chiếc giường ngăn nắp. 

Một đống hổ lốn những tuýp kem, son môi và lọ con con đựng nước hoa, dầu hạnh nhân và cồn, cả sách vở nữa, một túi xách có khóa kéo và một hộp sô-cô-la Thụy Sĩ nhét đầy bút lông, bút viết, bùa chống lại cái nhìn độc địa, dây chuyền và vòng tay. Ông ngồi xuống giường cạnh cửa sổ phủ kín hơi băng. 

"Ở đây anh viết được," ông nói. "Nhưng em hãy ở lại đây đi, đừng để anh một mình!" 

"Để làm gì?" 

"Anh không rõ," Ka vội nói, rồi thêm ngay: "Anh sợ." Trong lúc nói câu đó thì ông đã viết bài thơ của mình, bắt đầu dòng miêu tả hộp sô-cô-la của chính mình, chú ông đem từ Thụy Sĩ về cho từ hồi bé. Giống như trên các bức tường quán trà ở Kars, trên bìa hộp là phong cảnh Thụy Sĩ. Sau này trong những ghi chép để hiểu và phân loại những bài thơ ông sáng tác ở Kars, Ka cho biết từ trong hộp sô-cô-la rơi ra trước hết một chiếc đồng hồ đồ chơi mà hai hôm sau ông mới nhận ra đó là kỷ vật hồi bé của Ipek. Cất bước từ chiếc đồng hồ đó, Ka đi ngược lại thời gian để suy tưởng đến thời thơ ấu và cuộc đời. 

"Anh không muốn em đi khỏi đây chút nào." Ka nói với Ipek. "Anh đang si mê em đến điên cuồng." 

"Anh có biết gì về em đâu cơ chứ,"Ipek nói. 

"Có hai loại đàn ông," Ka giải thích. "Loại thứ nhất phải biết rõ cô gái ấy ăn bánh mì kẹp nhân gì, chải đầu ra sao, ưa những trò ngớ ngẩn nào, tại sao giận dỗi với bố, cũng như nghe hết mọi chuyện hay dở về cô ta rồi mới yêu cô ta được. Loại kia, trong đó có anh, không biết nhiều về cô ta thì mới yêu cô ta được." 

"Nghĩa là anh yêu em, vì anh không hề biết rõ em? Anh cho rằng như thế cũng là tình yêu thực sự à?" 

"Kiểu tình yêu khiến người ta hiến dâng tất cả xuất hiện như thế đấy. Ka nói. 

"Vậy thì tình yêu của anh sẽ chấm dứt một khi anh đã biết em ăn bánh mì kẹp nhân gì và em ghét chuyện gì." 

"Nhưng lúc đó thì sự gần gũi giữa chúng mình đã trở nên sâu sắc và biến thành ước vọng bao trùm cả cơ thể và cuộc sống của mình, biến thành niềm hạnh phúc và ký ức gắn chúng mình với nhau." 

"Anh ngồi yên, đừng động đậy gì cả!"Ipek nói. "Chừng nào bố em còn ở gần, em không thể hôn ai được." Mặc dù vậy, thoạt tiên cô không chống lại nụ hôn của ông. Nhưng rồi cô đẩy Ka ra: 

"Em không muốn thế khi bố đang ở nhà." 

Ka ép cô nhận một cái hôn nữa và ngồi xuống cạnh giường."Mình phải cưới nhau càng nhanh càng tốt và đi khỏi đây. Ở Frankfurt mình sẽ rất hạnh phúc, em biết không?" 

Im lặng kéo dài. 

"Làm sao anh có thể yêu em khi anh thưa biết gì về em cả?" 

"Vì em đẹp... Vì anh vẫn mơ thấy được hạnh phúc bên em... Vì anh có thể nói với em mọi điều mà không phải ngượng ngùng. Anh luôn luôn tưởng tượng ra mình ngủ với nhau ra sao trong mơ." 

"Ở Đức anh đã làm gì?" 

"Anh bận bịu với những bài thơ không sao viết ra được, và anh luôn thủ dâm... Cô đơn là một vấn đề của lòng tự hào; con người kiêu ngạo nhốt mình trong vỏ bọc của chính mình. Nhà thơ chân chính luôn gặp phải cùng tình trạng ấy. Có hạnh phúc một thời gian dài thì anh ta sẽ trở nên tầm thường. Còn nếu anh ta bất hạnh một thời gian dài thì không còn tìm được sức mạnh trong mình để giữ lửa cho thơ... Hạnh phúc và thơ thực sự chỉ đồng hành trong một thời gian ngắn, sau một thời gian thì hạnh phúc sẽ khiến thi sĩ trở nên tầm thường, hoặc sự thực trong bài thơ sẽ phá vỡ hạnh phúc. Giờ thì anh rất sợ nghĩ đến lúc quay về Frankfurt đối mặt với sự bất hạnh." 

"Thế thì anh hãy ở lại Istanbul."Ipek nói. 

Ka nhìn cô chăm chú. "Em muốn sống ở khu nào của Istanbul?" ông thì thầm. Ông nóng ruột ước ao Ipek sẽ đòi hỏi ông một việc gì. 

Và Ipek cũng nhận ra ý ông, cô đáp: "Em chẳng muốn gì cả." 

Ka biết là mình quá vội vã. Nhưng ông cũng biết mình sẽ ở Kars không lâu. Và chỉ chốc lát là ông không còn cả khí trời để thở, và không còn cách gì khác là phải vội vàng lên. Họ lắng nghe giọng nói văng vẳng vào tận phòng và tiếng xe ngựa nghiến đường ngoài cửa sổ. Ipek đứng trên ngưỡng cửa, tay cầm một chiếc lược chải đầu và tư lự nhặt ra những sợi tóc vương trong đó. 

"Vậy là ở đây thê thảm và vô vọng đến nỗi một người như em đã quên hẳn mọi ham muốn." Ka nói. "Ở đây con người không còn mơ đến cuộc sống, chỉ mơ đến cái chết... Em đi cùng anh chứ?"Ipek không trả lời. "Nếu em định nói điều không lành thì thôi đừng nói nữa!" 

"Em không biết,"Ipek nói, mắt nhìn xuống chiếc lược. "Mọi người đợi mình ngoài phòng khách đấy." 

"Ở đó người ta đang có âm mưu gì đó. Anh linh cảm, nhưng anh không hiểu đang có gì thực sự xảy ra. Em giải thích cho anh đi!" Ka nói. 

Điện tắt phụt. Ipek đứng lặng yên và Ka muốn ôm cô vào lòng. Nhưng nỗi sợ phải đơn thương độc mã quay về Đức đã chế ngự ông hoàn toàn, tới nỗi ông không động cựa nổi tay chân. 

"Tối thế này thì anh không viết thơ được đâu,"Ipek nói. "Ta ra ngoài kia đi." 

"Em muốn anh làm gì nhất để em yêu nổi anh?" 

"Anh hãy là chính anh!"Ipek trả lời. Cô đứng dậy đi khỏi phòng. 

Đang sung sướng được ngồi đó, Ka chậm chạp cố nhổm dậy. Ông ngồi vào căn phòng không sưởi cạnh bếp và chép bài thơ "Hộp sô-cô-la" theo trí nhớ vào cuốn vở xanh trong ánh nến chập chờn. 

Khi ông đứng dậy định ra chỗ Ipek, ôm cô và vùi đầu vào tóc cô đột nhiên mọi thứ trong đầu ông xáo lộn như trong đêm đen sâu thẳm. Trong ánh nến giữa phòng bếp ông thấy Ipek và Kadife đang ôm nhau. Họ vòng tay qua gáy ghì chặt nhau như một đôi tình nhân. 

"Cha bảo đi tìm hai người, Kadife nói. 

"Không sao." 

"Ông ấy không viết được thơ à?" 

"Tôi viết xong rồi." Ka nói và bước khỏi bóng tối. Bây giờ tôi giúp mọi người được rồi." Nhưng khi bước chân vào bếp thì ông không thấy ai trong ánh nến chập chờn cả. Ông tự rót một ly Raki và dốc tuột vào họng, không pha thêm nước. Khi nước mắt trào ra, ông lấy một cốc nước. 

Phòng ăn tối mò một cách đáng ngại. Ka nhìn thấy bàn ăn trong ánh nến và đi ra đó. Mọi người quay lại phía ông, bóng đen to tướng của họ trên tường cũng chuyển động theo. 

"Ông đã viết xong chưa?" Turgut Bey hỏi. Trước đó ông đã im lặng vài giây và ra vẻ chẳng quan tâm đến Ka. 

"Rồi ạ." 

"Xin chúc mừng ông!"Ông ấn vào tay Ka một chiếc ly và rót đầy Raki vào. "Nội dung gì vậy?" 

"Bất kể nói chuyện với ai ở đây, tôi công nhận tất cả đều có lý. Nỗi sợ hãi ngoài đường phố ở Đức đã thấm sâu vào tôi." 

"Tôi hiểu rõ ông lắm," Hande nói với dáng điệu của một người từng trải. 

Ka mỉm cười hàm ơn với Hande. Ông ước gì nói được ra lời:"Đừng phơi đầu ra, cô bé yêu quý ạ!" 

"Nếu ông đã nói với trưởng lão đáng kính là ông tin Thượng đế vì ông tin bất cứ ai tiếp chuyện ông, thì tôi xin đính chính: Trưởng lão không phải là người đại diện cho Thượng đế ở Kars!" Turgut Bey nói. 

"Vậy ai đại diện cho Thượng đế ở đây?" Hande ngang bướng hỏi. 

Song Turgut Bey không bực mình với cô, ông là người cứng đầu và ưa tranh cãi, nhưng có trái tim quá yếu đuối để thành một người vô thần kiên định. Ka cũng cảm thấy ông sợ mọi thói quen trong thế giới riêng của mình sụp đổ không kém mối lo ngại các con gái ông bấthạnh. Không liên quan đến chính trị, ông chỉ sợmất chỗ ngồi ở đầu bàn, nơi có niềm khuây khoả duy nhất trong đời ông là tối nào cũng bàn luận hàng tiếng đồng hồ với các con và khách khứa về chính trị và chuyện Thượng đế có thật hay không, mà không rơi vào cãi cọ. 

Có điện trở lại. Phòng sáng hẳn lên. Ở thành phố này người ta đã quen chuyện mất điện rồi lại có, không ai mừng rỡ reo lên khi có điện trở lại như hồi Ka còn bé ở Istanbul nữa. Không có ai sung sướng, không có tiếng dặn dò "Ngó xem máy giặt thế nào, coi chừng hỏng", không có trẻ con đòi "Cho con thổi nến cơ". Mọi người dửng dưng như không có gì xảy ra. Turgut Bey bật ti vi lên và bắt đầu lướt qua các chương trình. Ka nói thầm với các cô gái, Kars quả là một thành phố rất yên tĩnh. 

"Vì ở đây chúng tôi thậm chí còn sợ nghe tiếng mình nói," Hande nhận xét. 

"Đó là sự im lặng của tuyết,"Ipek nói. 

Với cảm giác của kẻ bại trận, tất cả cùng nhìn một hồi lâu lên màn hình đang chầm chậm đổi kênh. Khi Ka chạm tay vào tay Ipek dưới bàn, ông chỉ muốn cả đời hưởng hạnh phúc ấy - ban ngày lờ vờ với một việc làm nhàm chán, tối đến nắm tay người phụ nữ này ngồi trước chiếc tivi bắt chương trình vệ tinh.