Chết Và Tái Sinh - Phần 05

MỘT THẾ HỆ MỚI CỦA LAMA TY TẠNG

Chết không phải là hết, mà chỉ là một sự thay đổi về hình hài, dòng tâm thức vẫn lưu chuyển cho đến khi con người ấy đạt đạo. Đặc biệt theo truyền thống của Phật giáo Tây Tạng, các vị Cao tăng sau khi viên tịch thường chọn phương pháp tái sinh (Reincarnation) vào một cảnh giới khác để tiếp tục tu tập hoặc tái sinh trở lại kiếp người trong những điều kiện thuận lợi hơn để hoàn tất hạnh nguyện độ sinh mà họ còn dở dang ở kiếp trước.

Trong bài này chúng tôi sẽ giới thiệu bốn vị Lama tái sinh Tây Tạng nổi tiếng ở thế kỷ 20 đã viên tịch đầu thập niên 80 và tái sinh trở lại kiếp người. Hiện tại các "hài đồng Lama" này đang tu học tại các Phật học viện Tây Tạng ở miền Nam nước Ấn Độ. Đại đức Roger Kunsang, phóng viên tạp chí Mandala, USA, đã viếng thăm các vị để thực hiện một cuốn băng video về sinh hoạt hằng ngày của các vị Lama tý hon này.

Ling Rinpoche : Lama Ling Rinpoche năm nay 10 tuổi, hiện đang tu học tại Phật học viện Drelung, là hậu thân của cố Đại sư Kyabje Ling Rinpoche (1903 - 1993), từng là Viện trưởng Đại học Phật giáo Gander, thầy dạy học cao cấp của đức Dalai Lama thứ 14 và nhiều Lama nổi tiếng khác. Từ năm 1986 đến những năm cuối đời, ngài được cung thỉnh sang châu u và châu Mỹ để truyền giới pháp cho người Tây phương tu học.

Roger : Kính chào, chú khỏe không ?

Ling : Cảm ơn, tôi khỏe.

Roger : Xin hỏi, năm nay chú bao nhiêu tuổi ?

Ling : Mười tuổi.

Roger : Ước mơ lớn nhất của chú là gì ?

Ling : Ước mơ lớn nhất của tôi là mong ước một nền hòa bình thực sự trên hành tinh này.

Roger : Còn hạnh phúc dành cho riêng chú ?

Ling : Dành cho mọi người.

Roger : Làm sao chú có thể đạt được ước mơ đó ?

Ling : Cầu nguyện, thiền định và học hành. Không phải một người mà tất cả mọi người.

Roger : Chú sẽ hóa độ cho mọi người chứ ?

Ling : Sẽ làm tất cả với khả năng của mình.

Roger : Khi nào chú mới bắt đầu ?

Ling : Khi việc học và tu của tôi hoàn tất.

Roger : Sẽ phải mất bao lâu ?

Ling : Tôi không biết, nhưng tôi phải hoàn tất.

Roger : Theo chú, thiền định cần thực hành như thế nào ?

Ling : Thiền à ? Bạn nên quán tưởng đến đức Phật hoặc tập trung vào một đề mục nào đó để tâm bạn được yên tịnh. Làm sao cho tâm bạn không dao động là cốt lõi của thiền.

Roger : Chú có lời khuyên nào cho các đệ tử (của vị tiền thân) trên thế giới?

Ling : Hãy nỗ lực tu học, kiên nhẫn và không nên ích kỷ.

Trijang Rinpoche : Năm nay ngài 14 tuổi, hiện đang tu học tại Phật học viện Gander (ở Nam Ấn Độ), được xem là hóa thân của cố Đại sư Kyabje Trijang Rinpoche (1904 - 1981), là thầy dạy học trung cấp của đức Dalai Lama thứ 14.

Roger : Kính chào chú, chú có khỏe không ?

Trijang : Khỏe, cảm ơn.

Roger : Chú có nhớ gì về kiếp trước không ?

Trijang : Không, hiện tại tôi đang ôn lại những gì mà tôi từng biết.

Roger : Chú học thuộc lòng có dễ không ?

Trijang : Dễ.

Roger : Thời khóa biểu sinh hoạt của chú một ngày như thế nào ?

Trijang : Tôi thức dậy vào lúc 5 giờ 30, tôi đi đảnh lễ bảo tháp vị tiền nhiệm. Sau đó tôi có một thời kinh sáng, rồi dùng điểm tâm. Từ 7g30 đến 9g tôi đọc kinh. Sau đó tôi nghỉ và chơi khoảng nửa giờ. Từ 9g30 đến 10g30 tôi ôn lại các bộ kinh mà tôi từng thuộc trước đây. Từ 10g30 tôi học văn phạm Tạng ngữ ; 11g tôi thọ trai, 11g30 tôi tập viết. Từ 1g đến 2g30 tôi nghỉ trưa. Thức dậy tôi uống trà rồi bắt đầu với lớp học tranh luận đến 5g. Sau đó là giờ tiểu thực ; 6g tôi học giáo lý với thầy Khensur Lati Rinpoche ; 8g tôi tranh luận với các bạn cùng lớp và 9g đến 11g tôi tiếp tục học thuộc lòng kinh. Sau đó tôi đi ngủ.

Zong Rinpoche : Mười tuổi, hiện đang tu học tại Phật học viện Gander, là hậu thân của cố Đại sư Kyabje Zong Rinpoche (1905 - 1983), ngài từng là Viện trưởng Đại học Gander nổi tiếng ở Tây Tạng (từ năm 1959, trường này được dời sang Ấn Độ), được xem là một người có nhiều pháp thuật trong giới Lama Tây Tạng. Từ năm 1978 đến 1980, ngài thường đến phương Tây để thuyết giảng, hàng ngàn tín đồ tại Ấn Độ và các nước ở phương Tây đã tìm thấy sự an lạc và hạnh phúc từ lời dạy của ngài.

Roger : Kính chào chú.

Zong : Xin chào !

Roger : Hôm nay là ngày nghỉ của chú ?

Zong : Vâng.

Roger : Chú đang làm gì ?

Zong : Tôi đang chơi.

Roger : Còn ngày mai ?

Zong : Ngày mai thứ hai, cũng là ngày nghỉ của tôi.

Roger : Buổi sáng, bình thường chú làm gì ?

Zong : Tôi thức dậy vào lúc 6 giờ. Tôi tụng kinh đến 8g, rồi ăn sáng và nghỉ đến 9g. Sau đó tôi học giáo lý.

Roger : Hiện nay chú đang học giáo lý gì vậy ?

Zong : Tôi đang học đến chương hai cuốn "Con đường hướng đến Trung đạo".

Roger : Chương thứ nhất là gì ?

Zong : Gander Lha Gyema.

Roger : Buổi sáng, học xong chú làm gì ?

Zong : Tôi nghỉ trưa và chơi đến 15 giờ. Sau đó tôi học đến 17 giờ. Học xong tôi đi tắm, ăn tối và đi ngủ.

Roger : Chú có học tiếng Anh không ?

Zong : Có chứ !

Roger : Chú có thích sang các nước phương Tây không ?

Zong : Có.

Roger : Chú nghĩ là chú sẽ thuyết pháp cho Phật tử phương Tây chứ ?

Zong : Tất nhiên.

Roger : Khi nào chú mới bắt đầu ?

Zong : Thầy Tenzin biết việc ấy.

Tenzin (vị thị giả của Zong Rinpoche) : Chúng tôi có dự kiến viếng thăm phương Tây vào năm tới. Chú có thể nói một số thời pháp ngắn. Tuy nhiên, chú thực sự sẽ làm công tác truyền giáo sau khi tốt nghiệp Tiến sĩ.

Roger : Rinpoche, quốc gia nào chú sẽ đến trước ?

Zong : Canada và Hoa Kỳ.

Roger : Chú sẽ ở đó bao lâu ?

Zong : Khoảng ba tháng.

Roger : Chú có nhắn nhủ với Phật tử phương Tây điều gì không ?

Zong : Xin đừng quên lời dạy của cố Đại sư Zong Rinpoche (tiền thân của chú).

Roger : Chú có thích thú vật không ?

Zong : Có.

Roger : Chú thích loài nào nhất ?

Zong : Rùa.

Roger : Tại sao chú lại thích rùa ?

Zong : Vì nó không bỏ chạy, nó sẽ ở lại với bạn. Tôi đang nuôi 5 con.

Roger : Chú có biết câu chuyện nào về thú vật không ?

Zong : Ổ rất nhiều, nhưng tôi thích nhất là câu chuyện về chú rùa con. Chuyện kể rằng, một hôm rùa con đến hỏi bố mẹ : "Tại sao con cứ mãi mang cái "tòa nhà" nặng nề này trên lưng hoài vậy ?". Bố mẹ rùa nói : "Con may mắn lắm mới có được nó, nó rất có ích khi con đi ra ngoài". Rùa con không đồng tình với giải đáp kia nhưng chú nghĩ mình phải nghe và chấp nhận lời dạy của bố mẹ.

Rồi một ngày nọ, rùa con gặp bạn của chú, bạn ếch cũng thắc mắc : "Tại sao bạn phải mang cái nhà trên lưng vậy ?". Rùa chưa kịp trả lời, vừa lúc ấy có một người cưỡi ngựa chạy đến, ếch cấp tốc nhảy xuống cái ao gần đó, còn rùa thì chậm chạp nhưng chú nhanh chóng nhớ đến lời dạy của bố mẹ nên chú liền thụt đầu vào "ngôi nhà" của mình. Bạn ếch lo lắng "chắc rùa đã chết rồi". Nhưng sau khi con ngựa chạy qua rồi, chú rùa từ từ di động và bò đi. Chú không làm sao cả. Chú nhớ lại lời của bố mẹ : "Này con trai, con may mắn mới có được ngôi nhà ở trên lưng !".

Osel Rinpoche : Mười hai tuổi, hiện đang tu học tại Phật học viện Sera, là hậu thân của cố Đại sư Thubten Yeshe (1935 - 1984), một Pháp sư nổi tiếng Tây Tạng, người góp sức san bằng các chướng ngại địa dư và nối liền những phân cách văn hóa, chủng tộc để dòng tuệ giác mặt trời đầu nguồn Tây Tạng có thể tuôn chảy xuống vùng đất lạ Tây phương, người đã giảng giải giáo lý tái sinh bằng chính sự thong dong đôi bờ sinh tử và chuẩn bị sắp xếp cho mình để có thể tái sinh như ý và để người khác có thể nhận ra hóa thân của mình. Bậc thầy vĩ đại ấy đã qua đời vì bệnh tim tại bang California, Hoa Kỳ ở tuổi 49, để lại phía sau mình một tổ chức khổng lồ. [ông là người sáng lập Hội Hộ Trì Phật giáo Đại Thừa (FPMT) và cho xuất bản tạp chí Mandala tại Hoa Kỳ, hiện nay tổ chức này phát triển thêm hàng trăm chi nhánh trên khắp thế giới]. Hai năm sau (từ ngày mất) người ta phát hiện ra ngài trong một dáng hình khác, đó là Osel Rinpoche, sinh ngày 12/2/1985 tại Bubion, Tây Ban Nha. Giới Phật giáo Tây Tạng đã đưa chú bé tái sinh này trở lại Ấn Độ để tiếp tục tu học.

Sau đây là thời khóa sinh hoạt hàng ngày của Osel Rinpoche :

6g thức dậy, 6g10 - 7g tụng kinh, 7g - 8g điểm tâm, 8g - 9g học kinh, 9g - 9g30 chơi, 9g30 - 10g30 học tiếng Tây Ban Nha, 10g30 - 11g nghỉ giải lao, 11g - 12g học tiếng Anh, 12g - 14g thọ trai và nghỉ trưa, 14g - 16g học tiếng Anh, 16g - 17g chơi, 17g30 - 19g học tiếng Tây Tạng, 19g - 20g tiểu thực, 20g - 20g30 nghỉ, 20g30 - 21g học văn phạm, 21g tắm và đi ngủ.

TÁI SINH Ở PHƯƠNG TY

Cô Vicki Mackenzie, một ký giả người Anh, từng là tác giả quyển sách nổi tiếng "The Boy Lama", kể chuyện về cậu bé tái sinh người Tây Ban Nha Tenzin Osel Rinpoche, hậu thân của cố Đại sư Thubten Yeshe (1935 - 1984). Đó là một người truyền dạy minh triết, kẻ vượt qua mọi chướng ngại địa lý, phong tục tập quán định kiến tôn giáo, để đánh thức khơi dậy những điều tốt đẹp nhất đang bị chôn kín trong lòng người. Một con người mà y học của thời đại "chim sắt" phán quyết là phải chết nhưng vẫn sống và sống hùng tráng như một mặt trời.... Quyển sách in lần đầu tiên vào năm 1989 bởi Nhà xuất bản Bloomsbury (Luân Đôn) và lập tức được dịch ra nhiều thứ tiếng trên khắp thế giới (đến nay đã chuyển ngữ ra mười thứ tiếng, bản dịch mới nhất là tiếng Nhật. Bản dịch Việt ngữ "Hài đồng Lama" in năm 1994.

Quyển sách thứ hai của Vicki là "Tái sinh ở phương Tây" (Reborn in the West" cũng do Nhà xuất bản Bloomsbury ấn hành vào tháng 4 năm 1995. Quyển sách lần này viết về năm vị thầy tái sinh người Tây phương - bốn nam và một nữ - những người được thừa nhận là hậu thân của các Lama người Tây Tạng. Quyển sách đề cập đến một số người khác tái sinh ở phương Tây nhưng họ không phải là Phật tử.

Adèle Hulse, phóng viên tạp chí Mandala, nói chuyện với Vicki Mackenrie (đang cư ngụ tại Melbourne, Australia) để biết thêm về nội dung quyển sách này.

Điểm chính của tôi khi viết cuốn sách này là an ủi mọi người rằng họ không bao giờ bị lãng quên khi họ chết và sau khi chết họ còn có một cuộc sống mới khác. Các Nhà xuất bản yêu cầu tôi viết một cuốn sách về tái sinh, nhưng khi tìm hiểu thì tôi thấy người ta chỉ thừa nhận việc tái sinh xảy ra trong cộng đồng người Tây Tạng, vì thế tôi sử dụng "tái sinh ở phương Tây" để làm chủ đề chính ngõ hầu đánh tan sự ngộ nhận vốn có bấy lâu nay của mọi người. Tôi cũng giới thiệu những sự kiện tái sinh của người phương Tây không theo Phật giáo. Tôi đã phỏng vấn tiến sĩ Roger Woolger, một tu sĩ đạo Do Thái, người nghiên cứu về tái sinh trong cộng đồng người Do Thái. Tôi đã thử so sánh những kết luận của người phương Tây về vấn đề này với những giáo lý về tái sinh của Phật giáo Tây Tạng.

Điều kích thích tôi hơn tất cả là sự nhận ra rằng hiện nay là thời điểm lịch sử của các bậc thầy phương Đông hiện thân ở phương Tây và sự trùng khớp đầy ý nghĩa này với cuộc tranh luận gắt gao trong giới khoa học về tâm thức và não bộ có giống không. Dĩ nhiên các bậc thầy thì nói rằng tâm thức là một phần độc lập đối với cơ thể.

Tôi cũng đề cập đến vấn đề "vun trồng" Phật giáo Tây Tạng thông qua những bậc thầy trên mảnh đất phương Tây là một quá trình đầy khó khăn vì phải va chạm sự cách biệt gữa các nền văn hóa.

TIN PHẬT TRƯỚC KHI CHẾT

"Là một người đồng tính luyến ái mắc bệnh Aids (Sida), tôi có nhiều thời gian để chấp nhận hoàn cảnh bi đát của mình. Nhưng khi nói chuyện với Sư cô về vấn đề chết và hấp hối, tôi cảm thấy mình có một nhận thức sâu sắc về cuộc sống và chấp nhận căn bệnh quái ác này. Qua phương pháp thiền chữa bệnh, kỹ thuật khống chế cơn đau và nhiều lần tranh luận với Sư cô... giờ đây tôi có cảm giác yên bình kỳ lạ, một cảm giác mà chưa từng bao giờ có trong cuộc đời của tôi. Theo cái nhìn của nhà Phật thì mỗi chúng sinh đều bị sinh, lão, bệnh, tử chi phối, nhưng dòng tâm thức thì vẫn lưu chuyển từ đời này sang đời khác. Quan niệm này rất chí lý và an ủi tôi...".

Trên đây là lá thư cuối cùng của Tim Sulliwan đề ngày 26/6/94 gửi cho tôi (Sư cô T. Wongmo) từ bang Chicago. Tim đến trung tâm tu học Togmay Sangpo tìm kiếm sự bình ổn cho tâm hồn vì tự biết mình sẽ chết trong vòng mấy tháng nữa từ bệnh Aids.

Giống như một người bị ruồng bỏ, Tim dành hết thời giờ để học Phật. Đọc sách, bàn thảo về Phật tánh, sự tái sinh, nhân quả, nghiệp báo... tất cả đều làm cho anh ta say mê và nó đã tạo cho anh ta một cảm giác dễ chịu. Anh ta là một người có từ tâm, dù rõ ràng bị đau đớn và đối diện với cái chết, nhưng cái đau lớn nhất của Tim là vẫn lo lắng cho gia đình và bạn bè, những người đang đau khổ vì căn bệnh nan y của anh. Tim tổ chức một buổi họp mặt với số người thân này lại để tôi có dịp giải thích về cuộc hành trình của tâm thức đi tới kiếp sau. Vai trò hộ niệm của người thân rất quan trọng đối với việc chuyển sanh của tâm thức. Người thân có thể cầu nguyện, phóng sanh, bố thí, cúng dường, hồi hướng công đức đó cho người mạng chung thọ sanh vào cảnh giới an lành. Bằng cách tập trung hộ niệm của quyến thuộc và bạn bè như thế sẽ giúp cho tâm thức của người đó tự động nâng lên. Tim và người thân của anh ta nhận thấy ý tưởng này mới lạ và tích cực so với những cảm giác bình thường của sự bơ vơ và chán nản đi kèm với cái chết.

Ngay cả lúc khó chịu với cơ thể bệnh hoạn của mình, Tim vẫn cố gắng tập thiền và niệm danh hiệu Đức Phật Dược Sư mỗi ngày. Đặc biệt, vào những ngày cuối cùng anh ta quá đau đớn không làm đưọc gì cả, tôi đến hướng dẫn cho anh ta phương pháp thư dãn khống chế cơn đau. Tim để cho trí não của mình đi theo sự dẫn dắt của thiền và cuối cùng dễ dàng đi vào giấc ngủ.

Tim thành thật nói với mọi người đừng lo buồn, rằng anh ra sẽ saün sàng đón nhận cái chết. Tim cho thấy sự từ bỏ đó của anh ta đối với tiền bạc bằng cách ban phát từ thiện. Khi Tim phàn nàn về việc tóc rụng do liệu pháp hóa học (chemotherapy), tôi đề nghị Tim nên cạo nó đi. Thoạt đầu anh ta cảm thấy bồn chồn vì sợ dư luận, nhưng sau đó anh ta cũng cạo nó và bắt đầu mặc chiếc áo thun màu vàng cam. Vì thế chúng tôi thường chế nhạo anh ta trông giống như một "tu sĩ" Chicago.

Rồi thời gian trôi qua, Tim tự theo dõi khi nỗi lo âu hiện lên trên diện mạo của mình, anh ta cười khúc khích và nói : "đừng quyến luyến nữa!".

Khi người nhà biết rõ Tim đang hấp hối, tôi được mời đến nhà Tim. Tôi đến anh ta đang vật lộn với bình ôxy và gần như không thể nói chuyện được. Như đã hứa, tôi bắt đầu trì trú hộ niệm và nhắc nhỡ anh ta nên nhiếp niệm trong giờ phút căng thẳng đó. Tôi hỏi Tim có cần gì nữa không, anh ta tháo mặt nạ ôxy ra và nói : "Không cần gì cả, cảm ơn cô đã lo cho con". Đó là những lời sau cùng của Tim.

Tôi nói với Tim : "Mọi thứ đều ổn cả, con có thể ra đi được rồi, đừng quyến luyến và sợ hãi, thôi con có thể ra đi". Tim đáp lại những lời này bằng cách gật đầu xuống và ngừng thở trong yên bình.

Đại đức Jangchup tiếp tục niệm Phật tiếp dẫn cho Tim. Bầu không khí trong phòng yên lặng và nghiêm trang giữa tiếng cầu kinh như để đưa lối cho Tim ra đi.

Với tro của Tim, Đại đức Jangchup đã tạo ra một pho tượng Chuẩn Đề ngay sau lễ hỏa táng. Tim đã có dịp tạo ra công đức của mình.

Theo MANDALA Journal, tháng 10/1994