Gia đình Penderwick ở phố Gardam - Chương 14 - Bánh mì pho mát rán

CHƯƠNG MƯỜI BỐN

Bánh mì pho mát rán

Jane không tin rằng người ta có thể có những ngày bi kịch. Em chưa bao giờ để cho Sabrina Starr có một ngày bi kịch, thậm chí cả Cầu Vồng cũng vậy, ngoại trừ cái ngày trái tim nàng suýt bị lão thầy tế cắt mất. Nhưng lão thầy tế đã không cắt trái tim nàng, và sau chuyện đó thì ngày hôm ấy đối với Cầu Vồng lại trở nên hoàn hảo, bởi vì tất cả tôn vinh nàng như một nữ anh hùng vĩ đại, còn chàng Sói Đồng cuối cùng thì cũng nhận ra nàng mới chính là người chàng yêu.

Vậy thì tại sao Jane lại đang có một ngày bi kịch chứ? Em gắng hết sức để không cảm thấy bi thương như vậy, nhưng đầu tiên thì em đã phải nhìn Skye đi Boston với bác Churchie, trong khi lẽ ra Skye phải là người nhìn Jane đi Boston mới đúng, và mọi chuyện hẳn đã là như thế rồi nếu không có Cầu Vồng và thái độ cao cả của nàng đối với sự hi sinh quên mình. Giờ thì Jane tin rằng thái độ của Cầu Vồng là quá cao thượng, mặc dù em không nghĩ như vậy khi viết vở kịch. Em quyết định rằng em thích cái nhìn cuộc sống kém cao cả hơn một chút của Sabrina Starr - và tự hứa với mình rằng lần sau nếu có lễ Cún Rút Thăm Thứ Tự nữa thì em sẽ nghe theo Sabrina Starr chứ không phải là Cầu Vồng.

Rồi sau buổi chia tay đáng buồn ấy thì lại là trận bóng đá với đội dở nhất liên đoàn. Lẽ ra chúng đã có một chiến thắng ngon lành - ngay cả khi không có Skye - thế mà cuối cùng lại thua 1 - 0. Và ai đã bỏ lỡ hai bàn thắng dễ dàng cho đội Pizza Antonio chứ? Cũng chính là cô bé đã quá thương thân đến nỗi từ chối đi ăn bánh pizza với cả đội sau trận đấu. Và tâm hồn đau khổ này là ai?

“Jane Letitia Penderwick”, Jane nói với cái trần phòng ngủ của mình. “Người giờ đây đang nằm một mình trên giường, chìm đắm trong nỗi sầu muộn”.

Em tự hỏi không biết lúc này Skye đang làm gì. Hẳn chị ấy và bác Churchie đã đến Boston rồi. Có lẽ họ đang ăn trưa với Jeffrey trong một nhà hàng sang trọng nào đó. Có lẽ - Jane không thể không hi vọng - Jeffrey sẽ hơi thất vọng một chút vì người đến thăm cậu là Skye. Em thò tay xuống dưới giường, lôi ra một quyển vở xanh và cây bút, rồi viết:

“Jeffrey, Jeffrey, tớ rất sung sướng vì cuối cùng cũng được gặp cậu”, Skye nói.

“Cảm ơn cậu”. Jeffrey quay đi để che giấu nỗi buồn của mình.

“Có chuyện gì thế? Cậu không vui khi thấy tớ sao?”.

“Tất nhiên là có chứ, Skye thân mến”. Cậu quay lại nhìn cô bé, khuôn mặt sáng bừng lên sự chân thành. “Nhưng chính cô em gái xinh đẹp và tài năng của cậu, Jane, mới là người tớ thích hơn”.

“Ha”, Jane thốt lên, mạnh tay gạch bỏ những gì em vừa viết. “Làm như sẽ thật sự có ai nói thế về mình không bằng”.

Em sẽ làm gì bây giờ? Em không thể nằm đây cả ngày được. Em có tuyệt vọng đến mức phải dọn phòng không? Nửa phòng của em trông thật kinh khủng, ngay cả đối với cặp mắt mệt mỏi của em. Em miễn cưỡng đứng dậy đi loanh quanh, đẩy các thứ ra chỗ này chỗ nọ. Mỗi khi đẩy một món đồ nào đó, em lại thấy mình tiến đến gần bàn học hơn, nơi cuốn sách em đang đọc, Những kẻ bị đày ải đang yêu, tình cờ mở ra. Mình sẽ không nhìn vào sách chừng nào chưa dọn phòng xong, em tự nhủ, nhưng chẳng hiểu sao em vẫn cứ ngó cuốn sách, và chẳng mấy chốc em đã lại nằm phịch xuống giường, mải mê với câu chuyện, nhưng nó kết thúc chóng vánh quá. Jane gập sách lại cất lên giá. Em rất ghét mỗi khi đọc xong một cuốn sách yêu thích, bởi em biết mình sẽ phải đợi ít nhất là vài tháng nữa mới có thể đọc lại nó. Đó là một quy tắc em đã tự đề ra cho mình sau khi đọc cuốn Bóng tối trỗi dậy hai lần trong cùng một tuần - thật là tai họa, chẳng khác nào nhồi ba miếng bánh sôcôla to tướng vào miệng cùng một lúc.

Giờ thì đọc gì đây? Chắc chắn không phải cuốn sách em phải đọc ở trường, một cuốn tiểu thuyết về mùa đông của Geogre Washingotn ở thung lũng Forge (1). Chẳng qua là một bài học lịch sử giả dạng một câu chuyện mà thôi, Jane khịt mũi khinh bỉ - em sẽ không bị đánh lừa đâu. Em lướt ngón tay trên hàng sách xếp trên giá, trên những cuốn sách chất đống, và những cuốn sách nằm dưới sàn, nhưng riêng lần này, em không cảm thấy cuốn nào thích hợp cả. Em lang thang đến bên cửa sổ. Khung cảnh bên ngoài sáng sủa và tuyệt đẹp, với những đám mây trắng như bông trôi trên bầu trời, và một tấm chăn huy hoàng bằng lá rụng phủ lên mặt đất.

(1. Nơi trú quân trong mùa đông 1777 - 1778 của quân đội do Geogre Washington chỉ huy trong Cách mạng Mĩ.)

Sắp đến lễ Halloween rồi, Jane thầm nghĩ. Có lẽ em nên dùng khoảng thời gian còn lại trong ngày để nghĩ xem năm nay em nên mặc đồ hóa trang gì. Năm ngoái em đã giả làm Sabrina Starr trong chiếc áo choàng màu đen đính những ngôi sao bạc. Đó là một bộ đồ hóa trang rất đẹp. Năm nay thì em có thể… nhưng em chẳng nghĩ ra được gì cả.

“Ngay cả trí tưởng tượng cũng bỏ rơi mình”, em nói, gí mũi vào ô cửa sổ.

Em đứng đó cho đến khi rốt cuộc cũng phát ngấy lên vì cảnh cô đơn thống thiết này, và liền ra khỏi phòng đi tìm một bà chị hay một cô em nào đó để nói chuyện, ai cũng được. Nhưng người duy nhất em tìm được là bố em, đang ngồi chấm bài trong phòng làm việc.

“Mọi người đâu cả rồi ạ?”, em hỏi.

“Rosalind đến nhà Anna còn Batty thì ở bên hàng xóm với Ben và cô Iantha”, ông đáp. “Tuy nhiên, bố thì lại đang ở ngay đây trước mặt con đây. Bố có giúp được gì không nào?”.

“Con không chắc lắm ạ”.

“Con cứ nghĩ đi rồi cho bố biết nhé”.

“Vâng ạ”. Trong khi bố em quay lại với việc chấm bài, Jane tựa vào bàn viết lục lọi đống sách của ông. Phần lớn là sách về thực vật, với những cái tên như Thực vật có hoa: Phân lớp Caryophyllidae, Phần 1. Jane rùng mình. Nếu có khi nào đó bị mắc kẹt trên hoang đảo mà chỉ có mấy cuốn sách này để đọc thì chắc em sẽ phải từ bỏ thú vui đọc sách thôi. Ở dưới cùng đống sách, em tìm thấy một cuốn không liên quan gì đến thực vật học. Cuốn sách có gáy màu da cam và trên bài là hai thiếu nữ mặc quần áo kiểu cổ.

Lí trí và tình cảm. Bố đang đọc cuốn này hả bố?”.

Ông ngẩng lên, giật mình, rồi cầm cuốn sách trên tay em bỏ vào ngăn kéo. “Thỉnh thoảng thôi. Đây là một trong những cuốn sách mẹ con thích nhất đấy”.

Lí trí và tình cảm thì không tệ bằng Thực vật có hoa: Phân lớp Caryophyllidae, Phần 1, nhưng vẫn là một cái đầu đề chán ngắt. Theo ý kiến của Jane thì phần lớn tên những quyển sách dành cho người lớn đều thế cả. Không cuốn nào có cái tên thú vị kiểu như Emily ở trại Trăng Non hay Trạm Kiểm soát Bóng ma - một lí do chính đáng để không lớn lên nhanh quá. Nhưng em quá lịch sự nên không thể buông lời chê bai cuốn sách của bố, nhất là khi nó lại là cuốn sách mẹ em yêu thích.

Em quay sang đống thư từ của ông. Chúng cũng chán ngắt như chồng sách vậy - chỉ toàn hóa đơn và các bản tin khoa học. Nhưng có một thứ khác. Một tấm thiếp trang nhã, mời ông tham dự buổi liên hoan ở trường Đại học Cameron nhân dịp khai trương bộ môn khoa học mới.

“Kìa, có cả tên cô Iantha nữa này”, em nói. “Cô ấy sẽ diễn thuyết ạ”.

“Cô ấy đại diện cho khoa vật lí thiên thể. Nếu con đọc xuống dưới danh sách ấy một chút thì con sẽ thấy bố đại diện cho khoa thực vật học”.

Đây rồi: Tiến sĩ Martin Penderwick. “Thích quá bố nhỉ. Nếu bố cần giúp viết bài diễn thuyết thì bố bảo con nhé. Và tấm thiếp mời bố và một người nữa này. Bố đã định sẽ mời ai đi cùng chưa ạ?”.

“Còn mấy tuần nữa cơ mà”.

“Chắc là cô Marianne hả bố?”.

Bố em cầm tấm thiếp mời và bỏ nó vào ngăn kéo cùng với cuốn sách. “Jane, con yêu, con đã nghĩ đến chuyện ra ngoài hít thở không khí trong lành chưa nhỉ?”.

“Chưa ạ”. Tuy vậy em vẫn liếc nhìn ra ngoài cửa sổ. Trời vẫn không kém phần sáng sủa và tươi đẹp chút nào.

“Con có thể cào lá khô. Việc ấy vui mà”.

“Nếu phải làm một mình thì chẳng vui đâu ạ”.

“Thế thì con tìm ai đấy để làm cùng đi. Tommy hay Nick chẳng hạn”.

“Anh Nick ấy à!”.

“Ờ, thế thì Tommy vậy. Đi đi nào”, ông nói. “Nunc, celeriter (1). Nhanh lên”.

(1. Tiếng Latin, nghĩa là: Ngay bây giờ, nhanh lên.)

Vậy là Jane ra khỏi nhà và đi sang bên kia phố, nơi em thấy bà Geiger đang đứng trong vườn, rầu rĩ nhìn một bụi cây bị giẫm nát.

“Chào bác Geiger”, Jane nói. “Trời hôm nay đẹp quá phải không ạ?”.

“Ngày hôm nay sẽ còn đẹp hơn nếu bụi hoa cúc của bác không bị ai đó giẫm bẹp mất”. Bà chọc chọc bụi hoa, tìm kiếm xem có dấu hiệu sự sống nào không. “Cháu có muốn một lời khuyên không, Jane? Nếu cháu muốn các bụi hoa của mình nở được thì đừng để cho con trai mình chơi bóng bầu dục”.

“Cháu sẽ chẳng có con trai nào hết ạ. Các đại văn hào cần được sống riêng tư”.

“Và các bụi hoa cúc cũng vậy”.

“Vâng ạ”. Jane nghĩ hai chuyện chẳng có gì giống nhau cả. “Bác có biết anh Tommy đang ở đâu không ạ?”.

“Trong gara ấy, cưng à”.

Jane đi vào qua cánh cửa bên của gara, hay như Nick thường gọi, Phòng tập Thể dục của nhà Geiger. Mùa hè năm đó anh ấy và Tommy đã dồn tiền công cắt cỏ lại để mua dụng cụ Thể thao và xếp đặt tất cả vào gara. Jane thấy Tommy đang nhấc một cái tạ mà em thấy có vẻ rất nặng.

“Anh khỏe lên thật nhiều đấy”, em nói, tự hỏi không biết trong cuốn truyện Sabrina Starr tiếp theo em có nên cho Sabrina tập cử tạ để tăng thêm sức mạnh vốn đã rất phi thường của cô bé hay không.

Tommy nhấc cái tạ lên một lần cuối, rồi đặt nó lên giá. “Cả đội chỉ có một đứa nhấc tạ khá hơn anh thôi, và nó là một hậu vệ lẹt đẹt với điểm trung bình D. Em ôm cái bao cho anh được không?”.

Ý cậu là bao cát để tập đấm - một cái bao kếch xù màu xám, to gần bằng người Jane - treo lủng lẳng ở một cái móc trên trần. Trong khi Tommy đeo găng tay đấm bốc thì Jane vòng tay ôm lấy cái bao và trụ chân đứng thật vững. Vậy mà em vẫn chưa sẵn sàng, vì khi cậu bắt đầu đấm vào bao cát thì người em bị lắc loạn xạ. Anh Tommy quả là khỏe thật, em thầm nghĩ. Anh ấy có thể sẽ là nhân vật anh hùng cừ khôi trong một cuốn sách. Hay một vở kịch.

“Có lẽ Halloween năm nay em sẽ đóng vai vận động viên đấm bốc”, em nói vẻ ngưỡng mộ khi cậu thôi đấm và em đã có thể lấy lại hơi thở bình thường.

“Vận động viên đấm bốc phải mặc quần soóc. Em sẽ bị lạnh đấy”.

Jane không thích phải chịu lạnh. Rồi em chợt nảy ra ý hay hơn. “Em có thể giả làm một cầu thủ bóng bầu dục! Ôi, anh Tommy! Anh cho em mượn một bộ đồng phục cũ của anh được không?”.

“Được chứ”. Cậu lại đấm vào bao cát mấy cú nữa. “Rosy sẽ hóa trang như thế nào?”.

“Em không biết”, Jane đáp, vẫn còn bận mường tượng ra mình trong đôi đệm vai, thực hiện bài tập chuyền bóng mà anh Nick đã dạy cho cả bọn. Bước sang bên, bước sang bên, chạy tới trước, quay lại, bước sang bên, bước sang bên. “Thế còn anh thì sao?”.

“Trilby đã lên kế hoạch hết rồi”. Cậu lại đấm vào bao cát, còn mạnh hơn cả lúc trước. “Anh sẽ giả làm Siêu nhân và cô ấy là Lois Lane (1). Anh đã đồng ý, với điều kiện bọn anh sẽ chỉ đi xin kẹo trong khu phố của cô ấy thôi”.

(1. Nhân vật bạn gái của Siêu nhân.)

“Anh sẽ không đi quanh phố Gardam à?”. Jane không thể tưởng tượng nổi lễ Halloween mà không có Tommy.

“Em nghĩ là anh dám thò mặt lên phố mình trong cái quần ống bó sát và áo choàng à?”. Cậu đấm bao cát mạnh đến nỗi Jane suýt nữa ngã ngồi xuống đất. “Ros… mọi người sẽ cười anh thối mũi cho đến hết đời mất”.

“Thế thì sao anh không ở lại đây và mặc một bộ hóa trang bình thường, cái gì không có áo choàng ấy”.

Một cách ủ rũ, Tommy xoay người tấn công cái bao cát, nhưng đấm trượt. Jane đã bắt đầu thấy bực mình với cậu - chắc chắn anh hùng không thể cư xử như thế này được.

“Anh biết không, nếu cứ mặt sưng mày sỉa thế này thì anh sẽ không cưa được chị ấy đâu”, em nói, đột ngột buông bao cát ra.

“Cưa ai?”.

“Anh thừa biết là ai mà. Chị ấy cần hành động và những cử chỉ anh hùng cơ. Con gái ai chẳng thế”.

“Ý em là giống như cái anh chàng Cagney ấy chứ gì?”. Tommy cố tỏ vẻ khinh thường khi nhắc đến cái tên “Cagney”, nhưng thay vào đó chỉ trông càng thảm hại hơn. “Với lại, em thì biết gì chứ? Em mới lên mười thôi mà”.

“Em là nhà văn. Các nhà văn luôn hiểu rõ về tình cảm con người”.

“Vớ vỉn”, cậu nói.

“Anh vớ vỉn thì có ấy”. Em cảm thấy nước mắt đã bắt đầu tràn ra khỏi mi. “Thế thì anh cứ việc làm Siêu nhân đi. Em dám chắc anh sẽ đóng vai đó rất đạt trên một phố nào đấy không phải phố Gardam. Và chắc chắn là em, cái đứa mới lên mười này, sẽ không nhớ anh tí nào đâu”.

Em lao qua phố, chộp lấy cái cào trong gara nhà mình, nhận ra quá muộn rằng mình chưa hỏi Tommy xem cậu có muốn giúp không. Nhưng dù sao thì ai lại muốn cào lá với một gã Siêu nhân dỏm cơ chứ? Để mặc nước mắt chảy tràn xuống má, em cào lớp lá sang bên này, rồi bên kia, cứ như thế mai, cố gom một đống lá đủ to để chui xuống dưới. Nhưng em khóc dữ đến nỗi không thể làm nổi, thế là cuối cùng em đành nằm xuống đất, phủ mấy chiếc lá lên mặt, rồi khóc hoài, khóc mãi cho đến khi không còn nước mắt nữa, tuy vậy em vẫn nằm nguyên trên mặt đất, tự nhủ rằng nếu em nằm đó vĩnh viễn, tan rữa cùng với đám giun và đống lá, thì ít ra em cũng có thể giúp cho cỏ mọc.

Chuyện tan rữa trên phố Gardam hóa ra không dễ dàng đến thế. Thậm chí chưa chú giun nào kịp xuất hiện thì đống lá đã bị một kẻ to đùng, đen sì ném tung lên, và rồi kẻ đó xông đến liếm mặt em.

“Ôi, Cún”, Jane nói. Thật dễ chịu khi biết có người đi tìm em, cho dù đó chỉ là một chú chó.

Nhưng chú chó không chỉ có một mình. Khi Cún đã liếm sạch mặt em thì Jane ngồi dậy và thấy cô Iantha cũng đang ở đó, với Batty nắm một tay cô còn Ben nắm tay kia, cả hai đứa đều đang đeo cái kính điệp-viên-tình-báo của mình.

“Cháu có sao không?”, cô Iantha hỏi.

“Bọn em tưởng chị chết rồi”, Batty nói.

“Không hẳn là chết. Chỉ là…”, cô Iantha tế nhị dừng lại.

“Khổ sở thôi ạ”, Jane nói nốt.

“Ừ, cô nghĩ có lẽ cháu rất khổ sở. Và nếu thế thật thì cô không biết cháu có muốn ăn một miếng bánh mì pho mát rán không. Bọn cô đang chuẩn bị làm một ít đây”.

“Có cả sữa sôcôla nữa đấy”, Batty thêm vào.

Jane ngạc nhiên thấy rằng quả thực đúng vào lúc đó em đang thèm một miếng bánh mì pho mát rán với sữa sôcôla thật, và đến khi tất cả đã tập trung trong bếp của cô Iantha thì nỗi buồn của em bắt đầu tan biến dần. Rồi không hiểu vì sao cô Iantha lại làm cháy miếng bánh mì rán, và mặc dù Jane thề lấy thề để là em thích ăn bánh mì cháy như thế - còn Batty và Ben thì đang mải bôi pho mát lên mặt nhau nên chẳng đứa nào để ý - nhưng cô Iantha vẫn xin lỗi mãi đến nỗi Jane quyết định sẽ phải làm cho cô quên chuyện ấy đi. Vậy là em nói về chuyện Skye đi Bosten, về trận bóng đá dở ẹc và sự thô lỗ của Tommy, và cô Iantha lắng nghe chăm chú đến độ chẳng mấy chốc Jane đã kể tuốt cho cô nghe về Kế-Hoạch-Cứu-Bố và về chuyện Rosalind đang lo lắng đến thế nào.

“Cháu không lo sao?”, cô Iantha hỏi.

“Cháu nghĩ là có ạ, nhưng không bằng chị Rosalind. Chị ấy lo không thể tả được”.

“Tội nghiệp Rosalind”.

Jane uống nốt cốc sữa sôcôla của mình. “Thật là chán vì cô chẳng đáng ghét tẹo nào, vì nếu cô hẹn hò với bố cháu thì thật là tiện, mặc dù chị Rosalind đã bảo là chúng cháu không nên dùng bất kì ai trên phố Gardam vì như thế sẽ rất bất tiện. Cô không thể biết được chúng cháu đã vất vả thế nào để tìm những người phụ nữ đáng ghét đâu”.

Cô Iantha mỉm cười. Jane nghĩ trông cô càng xinh hơn khi cô mỉm cười, giống như là… ai nhỉ? Cô Iantha khiến em nhớ đến ai nhỉ? Có lẽ là cô gia sư tội nghiệp người Pháp trong truyện Lâu đài bị phù phép. Trong một thoáng em tự hỏi không biết cô Iantha có biết nói tiếng Pháp không.

Điện thoại của cô Iantha bỗng reo vang, và khi cô đi sang phòng bên để nghe máy, Jane liền giải trí bằng cách nhìn quanh bếp. Nó chẳng giống chút nào với căn bếp ở nhà em. Đúng là nó cũng ấm cúng và dễ chịu như bếp nhà em, nhưng cũng khá là bừa bộn nữa - bừa bộn một cách thật là thú vị, Jane thầm nghĩ - và có vẻ là không có nhiều chuyện nấu nướng trong căn bếp này cho lắm. Có một chiếc máy tính xách tay trên quầy bếp, dính đầy đề can hình vịt, ngăn tủ đựng gia vị thì chất toàn xe tải đồ chơi của Ben, và Jane không thấy một cuốn sách nấu ăn ở đâu hết. Đây mới đúng là căn bếp của một Nhà Tư tưởng, em tự nhủ, và thầm hứa với mình là em sẽ không bao giờ bận tâm đến chuyện nấu nướng.

Jane đã được dạy là không nên nghe người khác nói chuyện riêng qua điện thoại, vì vậy khi giọng cô Iantha ở phòng bên vang lên to hơn, thì em cố gắng không nghe lỏm. Ben và Batty cũng đang cố không nghe bằng cách đưa tay lên bịt tai, nhưng Jane nghĩ hai đứa lo lắng vì sự giận dữ trong giọng nói của cô Iantha hơn là vì phép lịch sự. Giọng cô Iantha quả là có vẻ hết sức tức giận.

“Không, Norman, như thế không thích đáng chút nào”, cô đang nói. “Nếu anh cứ tiếp tục thế này thì tôi sẽ phải báo cảnh sát đấy. Tôi gác máy đây, Norman. Trời! Hắn dám gác máy trước mình!”.

Có tiếng cái điện thoại bị ném xuống sàn đánh rầm một cái, rồi cô Iantha quay trở lại bếp. Mắt cô tóe lửa, và Jane dám chắc tóc cô trông xoăn hơn, có lẽ là do nhiễm điện của cơn giận. Ben bỏ tay bịt tai xuống.

“Vịt”, bé nói.

“Ừ, bé cưng ạ”. Cô bế bé lên và vỗ vỗ vào lưng bé. “Jane, cô xin lỗi vì cháu đã phải nghe cô cãi cọ như thế. Cái gã Norman đó là một đồng nghiệp cũ điên rồ của cô, hắn cứ khăng khăng buộc tội cô đã ăn cắp nghiên cứu của hắn, mặc dù cô đã nói bao nhiêu lần là nghiên cứu của hắn có nhiều chỗ sai đến nỗi sẽ chẳng ai thèm ăn cắp nó làm gì - chết, cô xin lỗi lần nữa”.

“Không sao đâu ạ. Sống với chị Skye, cháu đã quen với tính nóng nảy rồi”.

“Cháu tốt quá”, cô Iantha nói. “Mình làm gì đó vui vui để bù lại chuyện Norman đi. Batty này, cô cháu mình tiếp tục thí nghiệm nhé?”.

Thí nghiệm đó hóa ra là cố gắng thuyết phục Asimov rằng chó không phải loại sinh vật xấu xa, và đặc biệt khi chú chó đó là Cún, thì nó lại có thể là bạn nữa là đằng kh ác. Cô Iantha và Batty đã thực hiện thí nghiệm này mấy tuần rồi, còn có cả một biểu đồ dán ở bên sườn tủ lạnh để ghi lại tiến độ thí nghiệm. Hai cô cháu đã thí nghiệm rất từ từ và có phương pháp, đầu tiên là cho Cún vào tiền sảnh trong vòng hai phút trong khi Asimov được nhốt an toàn trong nhà tắm trên tầng hai, rồi cho Cún vào phòng khách trong vòng năm phút trong khi Asimov vẫn ở trong nhà tắm trên tầng hai nhưng để cửa ngỏ, rồi cứ tiếp tục như thế. Cho đến nay thì chưa có cuộc rượt đuổi hay trận chiến dữ dội nào xảy ra cả, và hôm nay cô Iantha với Batty đã sẵn sàng để làm một bước tiến lớn - cho Cún vào phòng khách trong khi Asimov ở trong bếp. Cùng một tầng, không có gì che chắn hết.

Giữa những tiếng cười và đùa giỡn, cô Iantha cùng Batty kéo Asimov ra khỏi đống khăn tắm ưa thích của nó, đem nó xuống nhà và đặt lên quầy bếp. Trong khi hai mẹ con cô Iantha trông chừng nó thì Jane và Batty mở cửa trước cho Cún vào, cảnh cáo nó bằng những lời đe dọa khủng khiếp rằng nếu không chịu cư xử cho ra dáng thì nó sẽ sớm bị trừng phạt. Nó hăm hở chạy vào nhà, như thể biết rõ Asimov đang ở đâu - mũi hếch đúng về phía nhà bếp - rồi nó ngồi yên ở đó suốt năm phút mà không hề tìm cách ra khỏi phòng một lần nào. Cô Iantha báo “Hết giờ!” từ trong bếp, vậy là Jane và Batty lại kéo Cún ra ngoài, rồi tất cả cùng nồng nhiệt chúc mừng nhau.

Đến lúc này thì Jane nhận ra em đã ở đây khá lâu rồi. Có thể bố sẽ lo lắng không biết em đã đi đâu. “Chúng cháu phải về đây ạ”, em nói.

“Còn nỗi buồn của cháu thì sao?”, cô Iantha hỏi.

“Biến rồi ạ, cảm ơn cô”, Jane đáp, và ôm lấy cô Iantha để tạm biệt mà không nghĩ trước xem mình có nên làm thế không.

Em sung sướng về nhà với Batty và Cún, và khi về đến nơi, em lại phát hiện ra một niềm vui còn lớn hơn nữa. Trên bậc thềm dẫn lên cửa trước là cái túi giấy có đề chữ JANE, với một cái mũ bảo hiểm sứt sẹo méo mó đặt ở trên.

“Ôi Batty, Halloween năm nay chị sẽ giả làm một cầu thủ bóng bầu dục! Có tuyệt không chứ?”.

“Không tuyệt bằng khủng long đâu”. Mỗi năm Batty lại đóng giả làm một chú khủng long khác nhau.

“Có thể là với bất kì cầu thủ bóng đá nào trước đây thì đúng thế thật”, Jane nói. “Nhưng cầu thủ này thì tuyệt hơn là một con khủng long nhiều. Rồi em sẽ thấy”.

Hãy để lại chút cảm nghĩ khi đọc xong truyện để tác giả và nhóm dịch có động lực hơn bạn nhé <3

Sách giảm giá tới 50%: Xem ngay