Phần IV- Hồi 1
Chương 4: Động không đáy kinh hoàng
Hồi 1: Súng săn
Dường như tất cả các đội thám hiểm vào núi Dã Nhân đều suy xét kỹ lưỡng đến những trở ngại và nguy hiểm có thể gặp phải, nhưng hiểm họa khó lòng dự tính nhất lại đến từ màn sương khí không ngừng trào ra dưới lòng đất. Ngoại trừ những kẻ mất tích vĩnh viễn bị nhốt trong đám sương mù bí ẩn, thì e rằng trên thế giới chẳng còn người nào khác có thể giải đáp xem rốt cục họ đã gặp phải điều gì trong đám sương mù, cũng không biết cội nguồn của nó xuất phát từ đâu. Nếu phán đoán theo lý lẽ thông thường, sương mù có khả năng khiến con người nảy sinh ảo giác, hoặc giả sương mù có hàm chứa độc tố, nhưng dựa vào kinh nghiệm phong phú, vũ khí tiên tiến hiện đại, cộng thêm một chút vận may không thể thiếu, thì lẽ ra họ cũng phải có cơ hội để rút lui an toàn khỏi núi mới phải.
Không chỉ có hai người Tư Mã Khôi và Ngọc Phi Yến nghĩ như vậy, mà ngay cả đội thám hiểm Anh lái chiếc Rắn đen II cũng ôm hi vọng về sự may mắn đó. Để đối phó với màn sương mù ngàn năm nằm sâu trong khe động khổng lồ, họ đã làm rất nhiều công việc chuẩn bị cần thiết, bao gồm các loại biện pháp phòng độc cùng nhiều thiết bị chiếu sáng cường quang sử dụng trong sương mù. Thế nhưng, chẳng ai có thể ngờ, bao trùm dưới màn sương mù dày đặc ấy lại tồn tại một thứ gì đó khiến con người hoàn toàn không thể tưởng tượng nổi.
Cuộn băng ghi âm mà Wilson để lại khiến mọi người nghe xong đều thất sắc, im lặng mãi một hồi lâu. Nội dung mà cuốn băng nhắc đến đã hoàn toàn đảo lộn toàn bộ nhận thức về các sự việc của họ trước đây. Ngọc Phi Yến biết rất rõ trong lòng, hội của cô và đoàn thám hiểm Anh lái chiếc Rắn đen II, chắc chắn đều có cùng một “khách hàng” ngồi phía sau màn diễn. Theo thông lệ quốc tế, nếu khách hàng đã thuê một nhóm người truy tìm tông tích chiếc máy bay vận tải bị mất tích, thì trước khi nhóm người đó thất thủ hoặc từ bỏ, sẽ không cho phép người khác nhúng tay vào. Nếu biết trước cơ sự như vậy, bọn cô ta đã chẳng thèm lao vào để uống ngụm nước đục này.
Ngọc Phi Yến lại nghĩ đến lúc cùng Tư Mã Khôi phát hiện ra chiếc máy bay tiêm kích vận tải, khi ấy sương mù trong khe núi đã hạ xuống mức thấp và chiếc Rắn đen II cũng không có biểu hiện gì bất thường, trong khoang chẳng thấy vết tích thể người Anh nào. Căn cứ vào đó có thể suy đoán: “vật thể sống” mà cuộn băng ghi âm nhắc đến, chỉ hoạt động trong phạm vi sương mù bao phủ, hơn nữa, chính “ánh đèn” đã dẫn dụ nó ra khỏi đám sương mù.
Lúc này Tư Mã Khôi đã cậy được nắp hòm hàng trong khoang máy bay, vừa nhìn quả nhiên bên trong chứa toàn trang thiết bị và vật dụng mà đội thám hiểm Anh mang theo, chứ không phải “báu vật Miến Điện” mà Ngọc Phi Yến đang mất công tìm kiếm.
Anh thấy thần sắc mọi người đều vô cùng nặng nề, như thể đại nạn đang sắp sửa giáng xuống đầu, liền tìm một lý do an ủi: “Chí ít cuốn băng ghi âm cũng giúp chúng ta giải thích một việc, đó là chiếc máy bay chúng ta gặp trong khe núi là chiếc Rắn đen II, chứ không phải oan hồn mấy chục năm trước vẫn lởn vởn trong sương mù còn gì !”.
Ngọc Phi Yến liếc Tư Mã Khôi một cái rồi nói: “Anh việc gì phải lừa người rồi tự lừa mình như thế. Chiếc máy bay mà chúng ta gặp quả đúng là chiếc Rắn đen II, nhưng rốt cục nó đã đâm phải cái gì trong đám sương mù ấy?”
Tư Mã Khôi nói, chiếc Rắn đen II đã đâm chính diện vào chiếc máy bay tiêm kích vận tải, nhưng lại không hề xảy ra cháy nổ, tôi nghĩ chắc là do “sương mù”. Nghe nói trên đời thường xuất hiện ảo ảnh “thành phố trên mặt nước, thành phố trong núi”, buổi tối ở những khu nghĩa địa hoang vắng còn có “thành ma”. Vật đột ngột xuất hiện từ trong lớp sương mù, quá nửa chỉ là hình ảnh mấy chục năm trước còn lưu lại của chiếc máy bay tiêm kích vận tải bị mất tích mà thôi.
Cuối thời kỳ chiến tranh Thái Bình Dương, quân Mỹ có một trung đội máy bay chiến đấu Mustang P-51. Trong khi đang chấp hành nhiệm vụ tuần tra ở khu vực Thái Bình Dương, đột nhiên họ phát hiện không phận phía đối diện xuất hiện hàng loạt máy bay chiến đấu Mitsubishi A6M Zero của quân Nhật, trong khi hạm đội liên hợp Nhật Bản lúc đó đã hoàn toàn không còn tồn tại, không quân và hải quân đều đã bị đánh cho tan tác, và đã sớm mất quyền khống chế trên khu vực từ lâu. Vậy thì làm sao còn có thể xuất hiện cả đội quân với quy mô cực lớn và chỉnh tề như vậy? Trong lúc phi công máy bay chiến đấu Mỹ định phát đòn công kích, thì toàn bộ quân địch đột nhiên biến mất chẳng còn tông tích, trước mắt họ chỉ còn lại mặt biển mênh mông nối liền đường chân trời dài tít tắp, xanh biêng biếc ngút cả tầm nhìn. Thông qua liên lạc họ được biết: sóng ra-đa hải quân tuần tra ở khu vực lân cận trước sau không hề xuất hiện bất kỳ phản ứng bất thường nào. Khi đó toàn bộ thành viên phi hành của trung đội bay chiến đấu Mustang đều tròn mắt ngạc nhiên, chẳng ai rõ cảnh tượng họ tận mắt chứng kiến khi nãy rốt cục là chuyện gì.
Sau này, hiện tượng đã được giải thích: đó chỉ là do khúc xạ ánh sáng của hơi nước, và còn có rất nhiều người tận mắt nhìn thấy chiến trường cổ đại rực rỡ huy hoàng trên biển hoặc thấp thoáng hiện lên phía tận cùng đường chân trời trong sa mạc. Có điều, các nhà khoa học đến tận bây giờ vẫn chưa giải thích nổi vì sao những ảo ảnh hình thành trên mặt nước hoặc trong tầng mây, mãi bao nhiêu năm sau này mới xuất hiện.
Đây là những điều Tư Mã Khôi nghe được lúc còn ở trong đội du kích cộng sản Miến Điện. Bản thân anh cũng không biết nó là thật hay giả, sở dĩ giờ đây lôi ra nhắc lại vì thấy cảnh ngộ đội thám hiểm gặp phải trong núi Dã Nhân có vài phần tương tự với các hiện tượng ly kỳ xuất hiện nơi biển rộng cát dài kia. Giải thích như vậy nghe có vẻ thông suốt lý lẽ hơn cả.
Thế mà Ngọc Phi Yến lại không công nhận suy đoán này. Nếu nói đó chỉ là hiện tượng giả được hình thành do sương mù, vậy thì tại sao vào khoảnh khắc chiếc Rắn đen II đâm phải nó, lại giống như chạm vào bức từ trường cực mạnh, khiến toàn bộ động cơ, thiết bị đều ngừng hoạt động? Ngoài ra, sau khi nó rơi xuống khe cốc, “vật thể sống” bị đèn halogen cực mạnh dẫn dụ ra khỏi đám sương mù là thứ gì? Các thành viên đội thám hiểm Anh đã gặp phải nạn gì? Và vì sao ngay cả thi thể cùng vết máu đều chẳng lưu lại chút nào tại hiện trường?
Tuyệt cũng có cùng cảm giác nghi hoặc sâu sắc như vậy. Không kìm được, cô liền mở miệng hỏi Tư Mã Khôi: “Vì sao người Anh lại hình dung vật xuất hiện trong sương mù dày đặc là vật thể sống?”
Tư Mã Khôi đáp: “Cái từ này đúng là dễ hù dọa người thật. Kỳ thực, nói trắng ra, đó chẳng qua là một “vật sống” nào đó tồn tại trong đám sương mù trào ra từ lòng đất hay sao?”
Tuyệt lắc đầu phủ nhận: “Chỉ sợ chẳng hề đơn giản như thế, từ này phạm vi bao trùm quá rộng lớn, anh có thể nói cái cây ngọn cỏ là vật thể sống, thậm chí cũng có thể nói cả cõi trời đất này đều là một vật thể sống. Chỉ đến khi chúng ta tận mắt chứng kiến vật xuất hiện trong sương mù ấy, thì mới có thể miêu tả chuẩn xác về nó. Rốt cục trời đất mênh mang, những điều con người biết chỉ vô cùng hữu hạn, nhưng một điểm có thể khẳng định chắc chắn, vật bị đèn halogen dẫn dụ ra khỏi sương mù, tuyệt đối nguy hiểm khác thường, chúng ta không gặp phải nó thì hơn”.
Tư Mã Khôi ngẫm nghĩ: “Có thể làm rõ chân tướng vật ẩn nấp trong sương mù được, cũng chính là vấn đề then chốt giúp đội thám hiểm đào thoát khỏi núi Dã Nhân”. Nhưng khi bị mọi người liên tiếp đặt câu hỏi như nã đạn pháo, thì anh cũng chẳng biết phải trả lời thế nào, và trong lòng nghĩ: “Tôi còn đang hoang mang đây này, sao các cô toàn nhằm tôi mà hỏi mãi thế?”, nên đành phải lảng đi: “Nhìn không hết là việc bình thường dưới trời, hiểu không thấu là chuyện bình thường trên đất. Mọi việc diễn ra trước mắt quả thực vượt xa khỏi dự liệu, dường như chẳng có chút logic nào, nên nếu có là ai thì cũng chẳng thể giải đáp nổi. Với tình hình này, chúng ta chỉ có thể cố gắng dùng tư duy đàn hồi để giải quyết thôi”.
Ngọc Phi Yến và Tuyệt đều ngơ ngác không hiểu, nên thắc mắc: “Tư duy đàn hồi có nghĩa là gì vậy?”
Hải ngọng nói thay Tư Mã Khôi: “Cái từ này đúng là dễ dọa người thật. Kỳ thực nói trắng ra, hiện giờ cậu ta chẳng còn kế sách gì nữa cả, đành phải cố biến vấn đề phức tạp thành đơn giản, biến nó từ lạ thành bình thường. Chúng ta cần gì phải tự làm khó bản thân thế chứ, chẳng may nghĩ quá hóa cuồng thì người chịu thiệt thòi rủi ro là chính mình chứ ai?”
Ngọc Phi Yến gật đầu đồng tình: “Nói cũng có lý. Giờ đây bên ngoài núi mưa to như tháo cống, nước mưa không ngừng thấm qua kẽ đất đá, lòng sơn động bị màn mưa che phủ, khiến sương mù dày đặc dưới khe cốc bị tiêu tan hoàn toàn. Chúng ta nhờ thế mà tranh thủ được thiên thời, nếu bây giờ buông tay từ bỏ thì có khác gì mang công đổ bể. Chiếc máy bay vận tải bị mất tích của không quân Anh, từng xác nhận thông tin thông qua liên lạc điện đàm không dây rằng: đã hạ cánh vào màn sương mù, chứ không chìm xuống đầm lầy. Ở dưới lòng đất có bao nhiêu là đầm lầy, nên nơi cho phép chiếc tiêm kích vận tải hạ cánh chỉ có mỗi dải đất ẩm ướt dài hẹp và sâu hút này thôi. Nếu chúng ta tiếp tục lần mò về phía nam, thì biết đâu vẫn còn cơ hội tìm thấy hàng chứa trong khoang máy bay.
Trước đây Ngọc Phi Yến thường tự do hành sự theo ý mình, chẳng bao giờ cần giải thích gì với thuộc hạ, nhưng đối với mấy người mới hội Tư Mã Khôi (bọn họ quả thật có thể buông tay giãy cẳng giữa đường, mà mình chẳng làm gì được), nên cô đành xuống nước, thương lượng đầu cuối với họ, rồi dặn dò mọi người: “Dụng binh hay ở chỗ thần tốc, bây giờ chúng ta không thể nấn ná thêm được nữa, phải nhanh chóng bắt tay hành động. Bởi không chừng cơn bão nhiệt đới chẳng kéo dài thêm bao lâu, lỡ mà nó chuyển hướng giữa chừng hoặc đột ngột suy yếu thì sự việc sẽ phiền phức to, lúc đó đám sương mù chắc chắn sẽ xuất hiện trở lại. Trước khi xuất phát, mọi người cố gắng mang theo những vật dụng cần thiết mà đội thám hiểm Anh để lại, đặc biệt là lương thực và vũ khí phòng thân, cùng với thiết bị chiếu sáng. Nếu trên đường bất ngờ gặp sương mù, thì phải tắt ngay đèn pin cường quang và đèn chiếu halogen đi. Trong tình huống bất đắc dĩ, cũng có thể đổi sang dùng đèn hàn quang hóa học không tỏa nhiệt”. Nói xong, cô bắt đầu tìm kiếm vật dụng cần thiết trong hòm hàng của đội thám hiểm Anh.
Ngọc Phi Yến bất ngờ phát hiện một chiếc máy bộ đàm dạng đeo vai, bèn hỏi hội Tư Mã Khôi xem có ai biết sử dụng không?
Tuyệt xem xong bảo: “Đây là máy điện đàm không dây chiến thuật quân dụng hiệu PRS25/77 mà. Cái này do Mỹ sản xuất, tôi hiểu một chút về thông tin, chắc có thể sử dụng được nó, nhưng bây giờ trong huyệt động dưới lòng đất chẳng có kẻ sống sót nào khác ngoài chúng ta, thì cần nó để liên lạc với ai?”. Ngọc Phi Yến nói: “Sau khi lấy được hàng, chúng ta sẽ tìm cách rút lui khỏi khe núi, nhưng nếu ra được ngoài núi Dã Nhân mà không có ai tiếp ứng thì cũng chẳng nên cơm cháo gì được, mang theo nó chẳng nguy hại gì, ngược lại biết đâu sẽ có lúc phải dùng đến”.
Tư Mã Khôi thấy Ngọc Phi Yến bố trí mọi việc khá hợp lý, có bài có bản hẳn hoi, nếu là mình thì cũng chẳng thể nghĩ ra sách lược gì hay hơn, nên anh chỉ ngồi im lặng, chẳng nói thêm gì.
Những người còn lại cũng không có ý kiến gì khác, người nào người nấy cắm cúi bắt tay chuẩn bị, chỉ mỗi mình La Đại Hải cả đời chưa từng bị con gái chỉ huy bao giờ, tuy chẳng nói ra miệng, nhưng trong lòng khó tránh khỏi có chút khó chịu. Anh vô tình phát hiện dưới đáy hòm có một hộp gỗ dài, mở ra nhìn thì thấy bên trong đựng một khẩu súng săn bốn nòng kiểu cũ bị tháo rời từng bộ phận, kèm theo hai loại thuốc súng đặc chế. La Đại Hải trong chốc lát đã lắp ráp xong và thấy khẩu súng săn này đúng là to ngoại hạng, hơn nữa chất liệu thân súng rất được chú trọng, công nghệ vô cùng tinh xảo, bốn nòng súng xếp thành hình chữ thập, hai nòng trái phải lắp đạn ghém, hai nòng trên dưới là những đường xẻ rãnh dành cho loại họng súng cỡ lớn. Anh từng nghe người bản địa nói, đây là kiểu súng mà dân quý tộc Anh trước đây thường sử dụng khi đi săn voi rừng hoặc tê giác ở Miến Điện hay Ấn Độ. Lớp sừng bên ngoài của tê giác cứng đanh như thép nguội, đủ để phòng vệ trước nhiều loại đạn, chỉ mỗi khẩu “săn voi rừng” với đường kính họng súng ngoại cỡ này là nó không thể địch lại nổi mà thôi.
La Đại Hải hớn hở ra mặt, nói với Tư Mã Khôi: “Khẩu súng này chẳng khác nào khẩu pháo, có nó bên mình, tớ cũng cảm thấy vững dạ hơn nhiều”.
Tư Mã Khôi nhắc nhở: “Tiên sư Hải ngọng, cậu định mang nó đi bắn cả xe tăng đấy hả? Tớ bảo cho mà biết, sử dụng súng săn nòng ngoại cỡ đó cũng đáng ngại ra phết, tuy rằng uy lực nó lớn thật, nhưng vì được sản xuất từ lâu rồi nên cấu tạo thiết kế có khá nhiều điểm lạc hậu, khuyết điểm vô số, rất dễ cướp cò, đặc biệt lực đẩy về sau mạnh đến kinh người, kẻ nào thể lực yếu ớt, khi nổ súng không khéo còn nảy ra sau ngã chổng vó đấy”.
La Đại Hải tự thấy mình cao to lực lưỡng, thể lực tráng kiện, tay vai chắc chắn nên chẳng coi mấy lời của Tư Mã Khôi vào đâu: “Bọn khọm Anh đấy chẳng phải cũng chỉ uống nước máy, ăn mỳ trắng thôi sao? Đâu phải hạng ba đầu sáu tay gì. Bọn ấy mà đã sử dụng được thì chúng ta cũng có thể chơi cho sướng tay chứ”. Nói xong, anh khoác băng đạn của khẩu săn voi lên người, sau đó quay sang dặn dò Karaweik: “Ranh con nhà cậu nhớ bám đuôi cho sát vào nhé, nếu dám rớt lại phía sau, coi chừng anh bắn tuốt xác ra đấy”.
Karaweik cũng biết hoàn cảnh trước mắt vô cùng nguy hiểm, mặt mày hoảng hốt, miệng ngậm chặt chẳng dám ho he câu nào.
Sau khi mọi người đã nai nịt gọn gàng đâu vào đấy, họ mới lần lượt chui ra khỏi khoang Rắn đen II. Người nào người nấy đều lăm lăm khẩu súng tự động trong tay, dùng đèn chiếu halogen mở đường, dò dẫm về phía cực nam của khe núi truy lùng mục tiêu. Vùng nước đọng thấm qua kẽ nứt đất đá bị dòng khí lưu thông ở nơi cao trong khe núi cuốn ngược lên, đã tạo thành màn mưa bụi dày đặc giăng mắc mịt mùng khắp không gian, khiến tầm nhìn cũng bị ảnh hưởng, mọi vật trở nên mơ hồ không còn rõ ràng nữa.
Đáy khe núi toàn là những vùng đất ẩm ướt hoang phế, trong đó có một dải khá rộng, trải dài theo chiều dọc, tạo hình giống như con mãng xà khổng lồ. Trên mặt nước xung quanh lại mọc đầy cỏ răng cưa thân dày lá rậm và lau sậy um tùm, chúng cao đến ngang thân người, khiến đầm lầy trông chi chít ngang dọc chẳng khác nào bàn cờ.
Tuyệt thấy kỳ lạ liền thắc mắc: “Không gian dưới lòng đất rộng lớn, sâu hút, quanh năm bị sương mù dày đặc phong tỏa như thế này, ánh mặt trời chẳng bao giờ lọt xuống tới nơi thì lẽ ra không thể xảy ra hiện tượng quang hợp được mới phải, vậy mà sao hệ thực vật ở đầm lầy lại có thể mọc um tùm, phong phú dường này nhỉ?”
Tư Mã Khôi cũng đồng cảm: “Điều bất thường nhất là ở đây quả thực quá rộng rãi, trống trải, mà độ sâu của huyệt động không dưới hai ngàn mét. Tôi vốn dĩ cho rằng dưới lòng đất phải có vật gì đó ẩn nấp, nhưng trong này ngoại trừ sương mù ra, thì dường như chẳng có thứ gì”. Trong lúc nói, dưới chùm sáng của đèn chiếu halogen, anh nhìn thấy ở mặt nước lân cận nổi lềnh bềnh mấy khúc trông như củi khô, trong lòng biết chắc, đó chính là cá sấu.
Bốn xung quanh hẻm núi hoàn toàn cách biệt với thế giới bên ngoài. Những loài động thực vật từ trên cao rơi xuống đáy động, chỉ có thể sinh sôi nảy nở ở môi trường gần như khép kín. Bởi vậy, trong đầm lầy dưới lòng đất, xuất hiện các loài sinh vật bò sát như cá sấu hay mãng xà Miến Điện thì cũng chẳng phải điều gì kỳ lạ. Nhưng “vật thể sống” xuất hiện từ đám sương mù và tấn công chiếc Rắn đen II rốt cục là thứ gì? Hình dạng của nó chắc chắn không thể nhỏ được, hơn nữa, nó có thể mượn sự trợ giúp của sương mù nhanh chóng di chuyển lên nơi cao, nên chắc chắn không thể là cá sấu hoặc mãng xà Miến Điện.
Tư Mã Khôi chẳng lần tìm được đầu mối, nên mặc kệ không buồn nghĩ nhiều nữa. Anh ngẩng đầu nhìn lên cao, trước đây anh chẳng có chút cảm xúc nào với cơn bão nhiệt đới Buddha, chỉ thấy khí hậu khắc nghiệt là mối hiểm họa chí mạng, nhưng giờ đây lại ngàn vạn lần mong rằng cơn giông tố xua tan mây mù này đừng có dừng lại.
Trong lúc bước đi với đầu óc trỗng rỗng, đột nhiên anh nhìn thấy phía trước có một con cá sấu khổng lồ dài mười mấy mét, nặng tới vài tấn, há miệng lộ ra hàm răng sắc nhọn lởm chởm. Nó nằm vắt ngang đường, án binh bất động, bất ngờ bị kinh động bởi ánh sáng đèn halogen và tiếng bước chân, nhưng nó chẳng hề tấn công mà chỉ chậm chạp nhúc nhích thân hình nặng trịch phát ra mấy tiếng “ì oạp ì oạp” rồi cứ thế trườn sâu vào đám lau sậy, nghe âm thanh dường như đã bò đi khá xa.
Ngọc Phi Yến vội nhắc nhở mọi người, tuyệt đối không được đi gần chỗ cỏ lau sậy mọc, để tránh bị cá sấu mai phục ngoạm một ngoạm mà lôi xuống đầm lầy.
Lúc này gã Gấu trắng người Nga đột ngột dừng bước, làm một nhúm đất nơi con cá sấu khổng lồ vừa trườn qua làm vỡ cả tầng gỗ mục, dưới lớp rêu xanh và bùn đất dày lộ ra một khoảng đất rộng màu vàng như gan chó. Gã liên tiếp móc mấy chỗ khác nữa trên mặt đất, tất cả đều giống như vậy, xem ra nó kéo dài một mạch xuống tận nơi sâu dưới đáy đầm. Gã Gấu trắng người Nga dường như cảm thấy việc này rất đỗi bất thường, gương mặt vốn dĩ lạnh như băng của gã giờ đã phủ thêm một làn mây u ám.
Tuy rằng Tư Mã Khôi không hiểu gã khọm người Nga kia đang làm trò gì, nhưng nơi này cực kỳ nguy hiểm, đâu thể tự tiện dừng lại như thế, bèn hỏi: “Bác chuyên gia nhát chết cho em hỏi, bác đang đào bom đấy à?”
Gã Gấu trắng người Nga nghe thấy tiếng nói liền ngẩng đầu lên, mặt lạnh tanh hướng thẳng về phía Tư Mã Khôi mà há to miệng, bên trong lộ ra mỗi cái cuống lưỡi, ngầm ra hiệu mình không thể nói, sau đó liền dùng dao găm vạch vài chữ trên mặt đất.
Mọi người chiếu đèn nhìn xuống, chỉ thấy bốn chữ cái tiếng Anh “MOHO”, ai nấy đều cảm thấy kỳ lạ khó hiểu: “Đây là tên người à?”
Ngọc Phi Yến biết một số kinh nghiệm mà chuyên gia bom mìn Gấu trắng này từng trải qua, nhìn thấy mấy chữ cái tiếng Anh trên mặt đất, thì liền hiểu ra điều mà gã muốn nói với mọi người, cô ta kinh ngạc hỏi lại: “Có phải anh muốn nói chúng ta bị rơi vào trong ống kính viễn vọng rồi không?”