Phần IV- Hồi 5
Hồi 5: Con mắt ngoài khoang lái
Tư Mã Khôi cũng nghe thấy vô cùng chính xác. Âm thanh đó vừa rất đỗi xa lạ, lại vừa có vài phần quen tai, anh và những người còn lại đều ngầm cảm thấy rùng rợn trong lòng, đồng thời quay đầu lại nhìn.
Trong khoang máy bay tối mù mù, làm gì có bóng người nào thừa ra, chỉ có chiếc máy ghi âm cầm tay vừa phát hiện được trong chiếc Rắn đen II khi nãy là vẫn ngang nhiên nằm trên mặt đất, thì ra đây chính là nguyên nhân khiến mọi người đều cảm thấy âm thanh nghe quen tai.
Tư Mã Khôi thầm nghĩ: đây đúng là gặp ma thật, anh vẫn nhớ lúc ở trong chiếc Rắn đen II, không nghe thấy đoạn ghi âm vừa rồi, hơn nữa âm thanh lúc này khàn đục, trầm thấp, hoàn toàn khác với giọng của Wilson trong đội thám hiểm Anh. Có thể khẳng định, giọng nói này vô cùng xa lạ, không biết ai đã nhấn nút bật của chiếc máy ghi âm nhỉ? Khi nãy sự chú ý của tất cả mọi người đều tập trung vào trái bom địa chấn, nên không ai để ý đến tình tiết này.
Ngọc Phi Yến nhặt chiếc máy ghi âm lên xem lại, phát hiện nội dung ghi âm ban đầu đều bị xóa sạch, tua đi tua lại mấy lần, đều chỉ có duy nhất một câu: “I’m staring at you…”, nghe mãi đến cuối cùng pin yếu, âm thanh càng lúc càng kéo dài, nghe rất quái dị. Hải ngọng hỏi: “Câu nói đó có nghĩa gì vậy?”. Tuyệt dịch lại cho anh: “Có nghĩa là “Ta đang nhìn các người”. Hải ngọng cảm thấy vô cùng kỳ quái, nhìn trước nhìn sau rồi nói: “Ai đang nhìn chúng ta hả?”
Lúc rời khỏi chiếc Rắn đen II, mọi người khá vội vàng, chẳng ai còn nhớ sau khi nghe xong cuộn băng ghi âm, ai là người cuối cùng cầm nó, nhưng trong khoang máy bay, ngoại trừ sáu người sống ra, thì chẳng còn kẻ may mắn nào sống sót nữa cả. Vậy thì ai là kẻ đã xóa trộm nội dung trước đây trong băng rồi để lại lời cảnh cáo này?
Mọi người thì vậy, nhưng Ngọc Phi Yến lại cực kỳ quen thuộc với âm thanh này. Tuy từ trước đến giờ, nhóm của cô ta đều liên lạc thông qua người phụ trách trung gian, nhưng cô ta cũng từng vài lần nói chuyện công việc chi tiết bằng điện thoại với kẻ đầu não phía sau của tổ chức mang tên “Nấm mồ xanh”, biết giọng đối phương khàn đục, sống sượng, nghe rất khác người bình thường, nên chỉ cần nghe qua một lần thì sẽ không thể quên được. Bởi vậy, nghe thấy âm thanh vọng ra từ băng ghi âm, cô ta lập tức biết đây chính là “Nầm mồ xanh” – người đã phân công nhiệm vụ cho đội thám hiểm. Cũng vì ngoại trừ giọng nói của người này ra, thì tên tuổi, tướng mạo, thân phận v.v... cô ta đều không biết chút nào, do đó mà cô ta đành phải gọi hắn bằng cái tên “Nấm mồ xanh”.
Ngọc Phi Yến ngẫm kỹ lại việc này, càng nghĩ càng thấy lạnh sống lưng, sự việc đúng là quá đỗi kỳ quái khiến người ta khó lòng định liệu. Rốt cục ai là kẻ đã mở cuốn băng ghi âm? Lời ghi âm trong đó vốn dĩ không hề tồn tại, chắc chắn nó không thể nào tự nhiên xuất hiện, lẽ nào Nấm mồ xanh thực sự có khả năng sử lý xự việc cách xa ngàn dặm bằng cảm giác? Trộm nghĩ trên thế giới này không thể có loại tà thuật nào kỳ dị đến thế.
Ngọc Phi Yến cầm máy ghi âm nhìn đi nhìn lại, rồi quay sang nói với Tư Mã Khôi, nếu trên thế giới quả thực không có mắt nhìn vạn dặm, tai nghe vạn lý, thì chỉ có một khả năng: đó là vào thời khắc này, Nấm mồ xanh đang ẩn trốn trong chiếc tiêm kích vận tải, có thể một trong sáu kẻ may mắn sống sót chúng ta, có một kẻ là “quỷ biển”, nên nhất cử nhất động của đội thám hiểm trong khe núi đều không thoát khỏi tầm mắt của Nấm mồ xanh.
Lời này thốt ra đã khiến mọi người đều cảm thấy dường như có một bóng đen âm u vụt lướt qua tim. Khi nãy, mọi người còn đang bàn bạc từ bỏ kế hoạch hành động, thì đột nhiên từ máy ghi âm lại vọng ra một câu nói, sự thật hiện ra trước mắt hết sức rõ ràng: Nấm mồ xanh đang muốn cảnh cáo đội thám hiểm: “Đừng hòng ôm bất kỳ mơ tưởng, ảo vọng nào, phải mau chóng kích nổ bom địa chấn”.
“Quỷ biển” mà Ngọc Phi Yến nhắc đến, cũng là một cách gọi trong ngôn ngữ cũ của giới lục lâm, bây giờ từ này được dùng để chỉ “tai mắt”, “gián điệp”. “Biển” ý muốn chỉ bí mật, “quỷ” có nghĩa là ngầm theo dõi, cách xưng hô này cũng có lai lịch hẳn hoi. Trước đây, những ám ngữ mà giới lục lâm thường dùng, được gọi chung là “Mắt giang hồ đáy biển”, tương truyền hàng ngàn năm trước, có một người đánh cá trên biển, nhưng anh ta liên tục quăng ba mẻ lưới, đều chẳng thu được gì, mẻ lưới cuối cùng lại vớt phải một chiếc hộp sắt, trong hộp sắt đựng một phần của tập sách cổ. Người ngư dân đó liền mang ra chợ cho mọi người xem, những người có học vấn cao đều đọc được tất cả các chữ trong cuốn sách, nhưng câu từ lắp ghép lại thì đầy ẩn ý và rất khó lý giải, đọc xong như hiểu mà lại như không, chẳng ai biết rõ rốt cục nó ghi chép nội dung gì. Sau đó, cuốn tàn thư đã rơi vào tay một sư phụ lục lâm, ông ta đã đặt tên cho nó là “Đáy biển”, mượn nguyên tác đồng thời cộng thêm đôi chút sửa chữa thêm thắt, dần dần đã biến thành ám ngữ ngầm được giới giang hồ sử dụng rộng rãi sau này. Cuốn tàn thư được mệnh danh là cuốn “Kinh kim cương” lừng danh khắp năm hồ bốn bể. Đây chính là lai lịch của “mắt giang hồ đáy bể”.
Tư Mã Khôi nhận ra câu nói vừa rồi của Ngọc Phi Yến, là lời đồng âm đa nghĩa, cô ta đang muốn ám chỉ cho mình biết tên “quỷ biển” kia ẩn thân rất kỹ, chẳng có tung tích nào mà tìm kiếm. Nấm mồ xanh để lại lời cảnh cáo trong cuốn băng ghi âm, cũng chưa chắc là “người”, bởi vì nếu là người, thì sao lại vô hình vô ảnh, mà có thể nói rõ ràng rạch ròi đến thế? Đối phương đã nắm rõ mọi tình hình, thì khoảng cách tất phải ở gần ngay trước mắt mọi người, ngoài ra, khoang máy bay nhỏ hẹp, kín mít, làm gì có chỗ nào ẩn giấu người được?
Tư Mã Khôi thầm nghĩ, bất luận Nấm mồ xanh là người hay là ma, đối phương chắc chắn đang trốn trong khoang máy bay, nhưng trong khoang tất cả chỉ có sáu người mà thôi. Anh biết rõ bản thân mình hoàn toàn không liên quan đến Nấm mồ xanh, còn năm người còn lại, giơ bàn tay ra đếm cũng có thể đếm rất rõ ràng: La Đại Hải và Tuyệt đương nhiên không cần nói, Karaweik tuy là người Miến Điện bản địa, nhưng một cậu thiếu niên vùng sơn cước mới mười mấy tuổi đầu thì làm được được trò trống gì? Sao có thể là đầu não tổ chức thương mại lớn nhất trong thế giới ngầm ở Đông Nam Á. Huống hồ, thời gian Karaweik theo chân đội du kích cộng sản Miến Điện cũng không phải là ngắn, trong khi việc gặp đội thám hiểm ở núi Dã Nhân là việc mới chỉ xảy ra khoảng hai, ba ngày, bởi thế chắc chắn cậu bé cũng chẳng liên can gì đến Nấm mồ xanh.
Lại nghĩ Ngọc Phi Yến là thủ lĩnh đội thám hiểm, nếu cô ta quả thực không cần biết đến hậu quả, mà cho kích nổ quả bom địa chấn trong khoang máy bay, thì những người còn lại cũng không cố sống cố chết ngăn cản làm chi, mà việc gì cô phải giả thần giả quỷ với chính mình, bởi thế Ngọc Phi Yến cũng có thể loại trừ ra ngoài.
Theo lý mà nói, nếu thực sự có một gã “quỷ biển” ngấm ngầm theo dõi hành động của đội thám hiểm trong bóng tối, thì đó phải là kẻ ẩn mình dưới lớp vỏ thuộc hạ của Ngọc Phi Yến; nhưng từ khi đội thám hiểm vào núi đến giờ, các thành viên gần như đều bị chết hết, chỉ có hai người may mắn sống sót là Ngọc Phi Yến và gã Ciglovaski người Nga.
Tư Mã Khôi cảm thấy gã khọm người Nga tuy tính tình lạnh lùng, tàn nhẫn, giết người không ghê tay, tuyệt đối không phải hạng lương thiện gì, nhưng vẫn có một điểm không thể bỏ qua: gã mũi to này là chuyên gia bom mìn, chất nổ, nên đối với quả bom địa chấn hạng nặng trong khoang máy bay, chắc chắn chẳng ai có thể hiểu về nó hơn gã. Nếu không phải là gã đã chỉ ra thời hạn kích nổ quả bom, thì những người xung quanh nào biết nguy hiểm ẩn chứa bên trong. Bởi vậy, qua chi tiết này cũng có thể thấy Ciglovaski không phải là kẻ có biệt danh Nấm mồ xanh.
Tư Mã Khôi suy đoán loạn xạ một hồi, đầu óc mau lẹ sắp xếp mọi người thành hàng dọc, xem xét liền mấy lượt, về cơ bản, anh phủ định phán đoán trong sáu người có một kẻ là Nấm mồ xanh. Thế nhưng kẻ được gọi là Nấm mồ xanh chắc chắn vẫn đang trốn trong khoang, chỉ có điều hắn trốn ở “góc chết” mà mọi người không ai nhìn thấy được. Mà cũng không hẳn đó là “góc chết” về mặt thị giác, bởi rất có khả năng là “góc chết” trên trường nghĩa tâm lý, nghĩa là “góc chết” mà người ta không thể tưởng tượng được bằng tư duy thông thường.
Những người còn lại đều giống như Tư Mã Khôi, xoay vần sự việc mấy lượt trong đầu, càng nghĩ càng cảm thấy kinh hoàng bất an, nhưng giờ khắc này, chẳng ai dám mở lời bàn bạc. Bởi vì lời càng nhiều họ càng dễ lỡ miệng, biết rõ trong khoang có một Nấm mồ xanh giống như vong hồn đang đứng cạnh ngầm theo dõi, nó đã có thể sử dụng máy ghi âm để phát lời cảnh cáo trong lúc mọi người không hề phát hiện ra, nên nếu như nó ngấm ngầm ám hại, thì cũng đủ khiến người ta có đề phòng cũng như không.
Hải ngọng đột nhiên nảy ra suy một nghĩ kỳ lạ: nói cuốn băng ghi âm này xuất hiện một cách kỳ quái, không khéo bên trong có ma, thì nhân lúc sớm sủa, mau chân giẫm nát nó cho xong, tránh khỏi sau này món đồ chơi kia lại tự mình giở trò quái quỷ nào đó, khiến chúng ta ở nơi tối lửa tắt đèn này màn còn phải nơm nớp đề phòng nó. Nghĩ đi nghĩ lại có khi đây chẳng qua là tâm bệnh. Nói xong, anh liền ném nó xuống đất, dùng cán súng gõ đập không thương tiếc. Chiếc máy ghi âm của đội thám hiểm Anh để lại, vỡ vụn thành từng mảnh, cuộn băng bên trong cũng vỡ hỏng hoàn toàn.
Mọi người nhất thời im lặng, chẳng ai nói với ai lời nào. Tư Mã Khôi thấy dường như khó có thể nhìn thấy dấu tích gì từ vẻ bề ngoài, nên cũng không muốn rút dây động rừng. Để tiết kiệm nhiên liệu, anh liền tắt đèn halogen đang cầm trên tay, chỉ dùng chút ánh sáng tỏa ra từ chiếc đèn pin. Loại ánh sáng này vô cùng ảm đạm, nhưng năng lượng tiêu hao tương đối nhỏ, có thể duy trì chiếu sáng trong thời gian rất lâu. Khoang máy bay phút chốc chập chờn bóng sáng, người hay ma khó mà phân biệt nổi.
Tư Mã Khôi quanh năm lảng vảng ở nơi đầu súng mũi gươm, xem sự sống cái chết đều nhẹ tựa lông hồng, thêm vào đó lại có tâm lý phản nghịch thiên bẩm rất mạnh, thì làm gì có chuyện chịu để yên mặc cho người khác xoay vần? Tuy anh không biết tình hình cụ thể về kẻ được gọi là Nấm mồ xanh, nhưng thấy kiểu hành sự của hắn đầy bí hiểm, quái dị, thì đoán ngay tên này chắc chắn thuộc loại tà môn ngoại đạo, việc gì mình phải bán mạng cho những hạng người như thế? Ông mày bảo không làm là không làm, đứa nào làm gì được ông? Nghĩ đến đây, anh một lần nữa lại gọi mấy anh em trong đội du kích cộng sản Miến Điện đến, chuẩn bị “phủi đít ra về”.
Nhưng Tư Mã Khôi vừa nhìn thấy cái đầu băng bó trắng xóa của Karaweik thì lập tức lại nhớ ra: “Lúc đội du kích cộng sản Miến Điện tan rã, Karaweik đã không quản nguy hiểm, dẫn bọn mình từ con đường U Linh đi xuyên qua núi Dã Nhân, giờ đây làm sao mình có thể mặc kệ sự sống chết của cậu bé?”. Có điều, hoàn cảnh trước mắt của hội Tư Mã Khôi ngay cả cái mạng của bản thân cũng khó bảo toàn, còn người có thể dẫn Karaweik chạy trốn khỏi Miến Điện chỉ có một mình Ngọc Phi Yến, nên anh lại đành ghìm lòng lại, hỏi Ngọc Phi Yến bây giờ dự định làm thế nào, hay là phải để một người ở lại kích hoạt quả bom địa chấn?
Ngọc Phi Yến trong lòng rõ hơn ai hết, người nào ở lại người đấy sẽ cầm chắc lệnh bài tử hình. Thực ra cô ta chẳng buồn bận tâm đến điều này, bởi vì trong mắt cô ta, sinh mệnh và giá trị sinh mệnh là hai khái niệm hoàn toàn khác nhau, bởi thế cô ta cũng dễ dàng đưa ra quyết định về cái được cái mất. Trong lòng Ngọc Phi Yến sớm đã có sự tính toán so sánh thiệt hơn, liền nói với mọi người: “Bây giờ chúng ta sẽ rút thăm phán định sống chết, ai rút phải quân bài đen sẽ phải ở lại kích nổ quả bom, kẻ ở lại sống hay chết đành phải tuân theo mệnh trời vậy…”
Tư Mã Khôi nghe xong, trong lòng ngầm phán đoán: “Tổ tiên Ngọc Phi Yến xuất thân là dân trộm mộ Quan Đông, kỹ thuật ngửa bài này chắc chẳng ai thắng nổi cô ả, vì xem ra mọi người có vẻ đều bình đẳng như nhau, nhưng trên thực tế, tất cả quyền định đoạt đều do cô ả ngầm nắm giữ”. Tư Mã Khôi nghĩ đến đây, đang định lên tiếng vạch trần thủ đoạn, nhưng lời chưa kịp thốt ra khỏi miệng thì đã nghe Tuyệt nói trước với Ngọc Phi Yến: thời gian hẹn giờ của quả bom địa chấn chỉ có hạn, trong khi Nấm mồ xanh khi nãy vừa lợi dụng máy ghi âm để cảnh cáo mọi người, mà hắn lại thật sự đang ẩn nấp giữa chúng ta, vậy thì hắn cũng có khả năng rút phải quân bài đen, bị bom nổ thịt nát xương tan, nói không chừng thời gian mấy chục phút đó cũng chẳng đủ để hắn chạy thoát. Ngọc Phi Yến cúi đầu đáp: “Cũng mong như vậy”.
Tư Mã Khôi và La Đại Hải ngược lại không thể nào chấp nhận suy đoán này. Tuy ngoài miệng chẳng nói gì, nhưng trong lòng họ đều nghĩ: “Trên thế giới này, kẻ điên nào mà không có chứ? Có thể đúng là chúng ta gặp phải tên không sợ chết, huống hồ đối phương trốn trong chỗ tối, u hồn tựa bóng ma vô hình vô ảnh, hắn có phải người sống hay không còn khó nói nữa là”.
Tư Mã Khôi nghe thấy âm thanh bò trườn của bọn thằn lằn cỏ bên ngoài khoang cửa đã có phần suy yếu, cùng lúc Hải ngọng lại ngồi khuyên can Ngọc Phi Yến, bảo cô hãy từ bỏ ý niệm kích nổ quả bom: “Xem ra cô cũng không có vẻ là người cứng nhắc, bảo thủ. Cô cứ nghĩ kỹ lại mà xem, thằng cha địa lôi này đủ sức phá nổ cả dãy núi Dã Nhân khiến trời rung đất chuyển. Hơn nữa ở khu vực sâu hút dưới đáy này, sương mù vẫn chưa tan hết, cho dù chỉ để lại một người kích nổ thì biết đâu là sau khi bom nổ, sương mù dày đặc lại đột nhiên từ dưới lòng đất ùn ùn trào lên, khi đó ngay cả những người đã tháo chạy trước đó cũng tuyệt đường sống luôn. Hơn nữa, lúc chúng ta phát hiện ra cuốn băng ghi âm trong chiếc Rắn đen II, quả thực cũng bị nó làm cho mất hồn mất vía, sau đó mới biết chẳng qua chỉ là sợ bóng sợ gió vớ vẩn. Có khả năng lời cảnh cáo vừa rồi xuất hiện trong máy ghi âm cũng chỉ do mọi người nhất thời hoảng loạn, không thể phân biệt rõ chân tướng thật sự mà thôi, hết nghi thần nghi quỷ, lại nghi người, cứ ngồi đó nghi nghi hoặc hoặc mà tự mình giết mình…”
Tư Mã Khôi và La Đại Hải đều tự tìm những lý do mà ngay cả bản thân mình cũng khó tin nổi, hòng đánh tan ý niệm của Ngọc Phi Yến. Nhưng lúc lời mới nói được một nửa, thì đã thấy sắc mặt Ngọc Phi Yến trở nên vô cùng khó coi. Họ phát hiện hướng nhìn của cô là nhằm vào vị trí khoang lái ở ngay sau lưng mình, nên trong phút chốc đều cảm thấy khí lạnh xâm chiếm da thịt, vội vàng quay người xem rốt cục là thứ gì. Vừa mới ngoảnh đầu lại thì thấy trong bóng tối có một con mắt khổng lồ ám đầy ma khí, ánh mắt nhấp nháy như ánh nến, đang im lặng bất động nhìn chằm chằm vào những người ở trong khoang.