Size 12 không phải là mập - chương 07b

Chỉ vừa liếc qua tôi một cái, khuôn mặt chị đã lập tức dúm lại. “Ôi không! Không phải lại một ngôi sao nữa của tôi đấy chứ!”

Bác Pete lờ chị đi, tiến thẳng đến cái điện thoại ở bàn an ninh, và giơ lên một chùm chìa khoá; trên đó có đính một tấm thẻ sinh viên và một bản sao nhân vật hoạt hình Ziggy bằng cao su nhỏ xíu. Bác bắt đầu đọc thông tin trên thẻ cho các sếp ở phòng an ninh.

“Roberta Pace,” bác đọc, giọng đều đều. “Thành viên cư trú của Fischer Hall. Năm nhất. Thẻ 55739...”

Tôi đứng cách cả cái bàn an ninh lẫn bàn tiếp tân một chút, cảm thấy toàn thân mình bắt đầu run bần bật. Tôi chưa hề nghe cái tên đó bao giờ. Nhưng tôi không đòi xem bức ảnh trên thẻ sinh viên. Tôi không muốn biết liệu mình có quen mặt cô bé ấy hay không.

Đúng lúc ấy Rachel rẽ ra từ hướng nhà vệ sinh nữ.

“Có chuyện gì vậy?” chị ta hỏi, luồng mắt hết hướng từ tôi sang chú Pete, rồi lại chuyễn qua ngài chủ tịch.

Tina, đứng sau bàn, là người lên tiếng.

“Một sinh viên nữa rơi từ nóc thang máy xuống,” con bé nói, hạ thấp giọng. “Đã chết rồi.”

Mặt Rachel lập tức bợt đi dưới lớp phấn Mac được tô trát công phu

Nhưng chỉ vài giây sau, khi chị ta mở miệng nói thì không còn chút rúng động nào trong giọng nói nữa cả. “Chắc mọi người đã báo cho cơ quan chức năng rồi phải không? Tốt. Chúng ta có thẻ sinh viên không? Ồ, cảm ơn bác, Pete. Tina, gọi bảo trì và nói họ tắt tất cả các thang máy đi. Heather, phiền cô gọi đến văn phòng tiến sĩ Jessup và cho họ biết chuyện đang xảy ra, được không? Ngài Allington, tôi rất lấy làm tiếc về chuyện này. Mời ngài quay lại ăn sáng...”

Tự thấy vẫn còn run lẩy bẩy và nhịp tim đang nhảy khoảng một triệu lần một phút, tôi chuồn lẹ về văn phòng mình để gọi vài cú điện thoại.

Chỉ duy nhất lần này thôi, thay vì phải gọi tới văn phòng Ts. Jessup trước, tôi gọi cho Cooper.

“Phòng thám tử tư Cartwright nghe đây,” anh nói, vì tôi đã gọi vào số văn phòng với hy vọng anh sẽ có ở đấy.

“Em đây,” tôi nói. Tôi cố hạ thấp giọng vì Sarah đang ở trong văn phòng của Rachel ngay sát bên. Cô ta đang gọi vào di động của ừng RA để thông báo chuyện vừa xảy ra, rồi yêu cầu chúng xuống ngay các tầng chúng phụ trách càng sớm càng tốt.

“Lại một vụ nữa rồi.”

“Lại một vụ gì?” Cooper hỏi. “Mà tại sao em lại phải thì thầm như thế?”

“Một vụ tử vong bằng thang máy nữa” tôi thì thầm.

“Em nói nghiêm túc đấy chứ?”

“Vâng,” tôi nói.

“Chết rồi

Tọi nhớ lại khuôn mặt bác Pete.

“Vâng,” tôi nói.

“Lạy chúa, Heather. Anh rất tiếc.”

“Vâng,” tôi nói, lần thứ ba và cũng là lần cuối cùng. “Nghe này... anh qua đây được không?”

“Qua đó? Để làm gì?”

Ngay lúc ấy, một toán lính cứu hoả ở độ Ladder số 9 xô qua cửa văn phòng tôi, áo khoác và mũ bảo hộ đã sẵn sàng. Một người trong số đó cầm một cái rìu. Rõ ràng là lúc gọi chưa có ai nói rõ bản chất sự việc lần này cho các chàng trai dũng cảm nhất thành phố New York này biết.

“Ở tầng dưới,” tôi nói với họ, chỉ về phía cầu thang dẫn xuống tầng hầm. “Lại... ừm, tai nạn thang máy nữa.”

Viên đội trưởng lộ vẻ ngạc nhiên, nhưng cũng gật đầu và dẫn một đoàn - lúc này mặt mày đã trở nên hết sức nghiêm nghị - qua bàn tiếp tân, xuống cầu thang.

Tôi quay lại thì thầm vào ống nghe, “Anh Cooper, em muốn xuống dưới đó xem chuyện gì đã xảy ra, và em cần đến sự trợ giúp của một điều tra viên chuyên nghiệp.”

“Ái chà,” Cooper nói. “Từ từ đã nào chiến sĩ. Chứ cảnh sát không có ở đó à? Họ chẳng phải là những điều tra viên chuyên nghiệp đấy sao?”

“Cảnh sát sẽ chỉ nói cùng một điệu về vụ lần này như lần trước thôi,” tôi nói. “Rằng con bé đã chơi lướt thang, rồi trượt té.

“Bởi vì rất có thể sự việc đã xảy ra như thế, Heather.”

“Không,” tôi nói. “Không. Không phải lần này. Nhất định không phải lần này.”

“Sao không? Con bé này cũng là nữ sinh trường tư hả?”

“Em không biết,” tôi nói. “Nhưng chuyện này chẳng có gì vui đâu.”

“Anh không có ý nói thế là vui. Anh chỉ...”

“Con bé thích Ziggy, Coop ạ,” giọng tôi hơi vỡ ra, nhưng tôi chẳng thèm quan tâm.

“Con bé cái gì cơ?”

“Ziggy. Nhân vật hoạt hình ấy.”

“Anh chưa nghe nói đến bao giờ.”

“Bởi vì đấy là nhân vật hoạt hình kém sành điệu nhất thế giới. Chẳng ai thích Ziggy mà lại đi lướt thang máy cả, Coop ạ. Không ai cả.”

“Heather...”

“Chưa hết đâu,” tôi thì thầm, vì giọng Sarah đang văng vẳng vang sang từ phòng Rachel, vẻ ta đây vô cùng quan trọng, “Chúng tôi cần anh trở lại toà nhà ngay lập tức. Vừa có thêm một ca tử vong. Lúc này tôi không được tuỳ tiện tiết lộ các chi tiết, nhưng điều cốt yếu là anh...”

“Ai đó đã lấy mất cái chìa khoá,” tôi nói

“Chìa khoá nào?” anh hỏi lại.

“Chìa khoá mở cửa thang máy,” tôi đang sắp mất hẳn bình tĩnh đến nơi rồi. Tôi biết mà. Tôi đang gần như phát khóc lên. Nhưng tôi cố gắng giữ cho giọng mình không run rẩy, “Không có ai đăng ký mượn nó cả, Coop. Phải đăng ký thì mới lấy được. Nhưng kẻ nào đó đã không đăng ký. Có lẽ là kẻ giữ chiếc chìa khoá đó không muốn ai khác biết. Có nghĩa là kẻ giữ chiếc chìa khoá đó có thể mở cửa thang máy bất cứ lúc nào họ muốn, dù không có buồng thang nào ở đó cả.”

“Heather,” Cooper nói, bằng cái giọng mà ngay cả trong cơn kích động tôi cũng không thể không cảm thấy nó vô cùng an ủi. Và sexy. “Em cần báo điều này cho cảnh sát. Báo ngay đi.”

“Okay,” tôi nói, cố hạ thấp giọng. Trong văn phòng Rachel, Sarah vẫn đang ra rả, “Tôi không cần biết hôm nay có là sinh nhật của bà nội anh hay không, Alex. Vừa xảy ra một cái chết nữa trong toà nhà. Chuyện gì quan trọng với anh hơn: sinh nhật bà nội anh, hay công việc của anh, hả?”

“Hãy đến nói ngay với cảnh sát đúng những gì em vừa nói với anh,” cái giọng an ủi, sexy của Cooper vẫn đang chảy vào tai tôi. “Sau đó kiếm một cốc cà phê lớn với thật nhiều sữa và đường rồi uống hết ngay khi nó còn nóng, nhớ chưa?”

Câu cuối này làm tôi ngạc nhiên. “Tại sao?” tôi hỏi.

“Bởi vì nhờ làm công việc này mà anh phát hiện ra các món uống chứa nhiều sữa sẽ rất tốt cho ta mỗi khi bị sốc, nếu không có sẵn whiskey. Được chưa nào?”

“Được rồi. Chào.”

Tôi cúp máy, rồi gọi cho Ts. Jessup và giải thích về chuyện đang xảy ra với trợ lý của ông ta - vì chị này cứ một mực nói rằng Ts. Jessup đang dự một cuộc họp. Ngay khi nghe tin, trợ lý của ông tiến sĩ, Jill, nói bằng cái giọng hoảng hốt một cách đích đáng, “Ôi lạy chúa! Tôi sẽ báo cho ông ấy ngay.”

Tôi cám ơn chị, cúp máy, rồi nhìn trân trân vào cái điện thoại.

Cooper nói đúng. Tôi phải báo cho cảnh sát biết về chuyện cái chìa khoá ngay.

Tôi nói với Sarah rằng tôi sẽ trở lại trong ít phút, rồi rời văn phòng. Tôi bước ra sảnh và thấy ở đây đang náo loạn cả lên. Các cầu thủ bóng rổ đứng lẫn lộn với đám lính cứu hoả. Các viên quản lý đang dùng tất cả các đường dây điện thoại còn trống, bao gồm cả điện thoại của bác Pete và điện thoại ở quầy tiếp tân, nhằm quản lý tình hình. Còn Rachel thì đang gật gật đầu khi viên đội trưởng cứu hoả nói gì đó với chị ta.

Tôi liếc về phía cửa chính của toà nhà. Cũng viên cảnh sát lần trước đã có mặt trong ngày Elizabeth chết giờ đang đứng ở đấy, không co bất cứ sinh viên ở ngoài nào vào lại bên trong toà nhà.

“Các cô cậu chỉ được vào bên trong khi nào chúng tôi cho phép,” viên cảnh sát gầm gừ với một thằng nhóc trọc đầu đeo khuyên môi vừa nói rằng, “Nhưng cháu phải về phòng để lấy bài tập! Nếu không nộp bài trước buổi trưa cháu sẽ lãnh một con F!”

“Xin lỗi anh,” tôi nói với viên cảnh sát, “Anh có thể cho tôi biết ai đang chịu trách nhiệm ở đây không?”

Viên cảnh sát liếc tôi một cái rồi chĩa một ngón tay về hướng Rachel.

“Gần nhất theo tôi thấy, cái cô đằng kia kìa,” anh ta nói.

“Không,” tôi nói. “Ý tôi là, có một thám tử, hay...”

“Ồ, có đấy,” viên cảnh sát đầu về phía một người đàn ông cao lớn, tóc xám, mặc chiếc áo khoác nhung màu nâu và thắt một cái cà vạt ca-rô đang đứng dựa vào tường - và, có lẽ ông ta không hề hay biết là lưng áo mình sẽ dính đầy sơn, vì ông ta đang đứng dựa vào một tấm poster cổ động sinh viên tham dự buổi thử giọng cho một bộ phim ca nhạc, mà tấm poster ấy lại xịt hơi nhiều sơn Elmer lấp lánh. Trừ việc đang ngậm một điếu xì gà chưa đốt ở khoé môi, trông chả khác gì đang nhai nó cả, ông ta chẳng làm gì hết.

“Thanh tra Canavan,” viên cảnh sát nói.

“Cám ơn,” tôi nói với viên cảnh sát, lúc này đang quay sang nói với một cậu sinh viên khác, “Dù cậu có chảy cả máu mắt tôi cũng chả quan tâm. Cậu sẽ không được vào trong đó cho đến khi nào tôi bảo là được vào.”

Tôi tiến tới chỗ viên thanh tra mà tim muốn thót lên tới cổ. Trước giờ tôi chưa từng nói chuyện với thanh tra. Ờ thì, trừ cái lần tôi cáo buộc mẹ mình tội ăn cắp tài sản.

“Thanh tra Canavan?” tôi lên tiếng.

Ngay lập tức tôi nhận ra cái ấn tượng ban đầu của mình - rằng ông ta đang chẳng làm gì cả - là hoàn toàn sai. Thanh tra Canavan không phải là không làm gì. Ông ta đang chăm chú ngắm nghía cặp giò của sếp tôi, trông khá rõ nét dưới lần váy ống.

Ông thanh tra rứt ánh mắt ra khỏi đôi chân của Rachel và quay sang nhìn tôi. Ông ta có một bộ ria mép cứng cứng màu xám, trông cũng khá bảnh. Thường thì râu trên mặt ít khi làm ai đẹp lên.

“Sao?” ông ta nói, giọng sặc mùi thuốc lá.

“Chào,” tôi nói. “Tôi là Heather Wells, trợ lý quản lý ở Fischer Hall này. Và... ừm, tôi chỉ muốn báo với ai đó là... chìa khoá thang máy bị mất. Điều này có thể chẳng có nghĩa lý gì... ở đây chìa khoá cứ mất suốt. Nhưng tôi chỉ nghĩ là ai đó cần được biết điều này. Bởi vì với tôi, chuyện mấy sinh viên nữ này chết vì lướt thang máy có hơi kì quái. Bởi vì, ông biết đấy,bao giờ chơi trò đó. Trò lướt thang máy ấy mà. Đó là theo kinh nghiệm của tôi.”

Thanh tra Canavan lắng nghe màn thuyết trình của tôi rất chăm chú, mãi đến khi giọng tôi bắt đầu lí nhí, ông ta mới rút điếu xì-gà ra khỏi miệng và chĩa nó về phía tôi.

“Lên đường phải không?” ông ta nói.

Tôi ngạc nhiên đến nỗi há hốc cả miệng ra. Phải mất một lát tôi mới lắp bắp, “Ừm, vâng.”

“Biết mà,” ông ta lại đút điếu xì-gà vào giữa hai hàm răng. “Con tôi có treo một tấm poster của cô ngay trên cửa phòng ngủ của nó. Cứ mỗi lần lên nhắc con bé vặn nhỏ cái đài chết tiệt của nó xuống là y như rằng lại phải nhòm cô trong cái váy ngắn chết tiệt ấy.”

Vì chả biết phải nói gì sau câu tuyên bố thẳng thừng này của ông thanh tra, tôi đành im lặng.

“Thế quái nào mà cô lại làm việc ở đây thế?” thanh tra Canavan hỏi.

“Chuyện dài lắm,” tôi nói, thật lòng hy vọng ông ta sẽ không bắt tôi phải kể lể mọi chuyện.

May thay, ông ta không bắt tôi kể gì thật

“Hệt như con gái tôi vẫn nói, cái hồi nó còn là fan bự nhất của cô, hay cái khỉ gió gì đấy. Giờ chuyện cái chìa khoá bị mất là thế nào đây?”

Tôi giải thích lại chuyện đó cho ông ta nghe. Tôi cũng nói đến, chỉ thoáng qua thôi, chi tiết Elizabeth là nữ sinh trường tư, còn Roberta thì thích Ziggy, và làm thế nào mà hai sự thật ấy lại khiến cho hai cô gái này có rất ít khả năng trở thành ứng cử viên của trò lướt thang máy. Nhưng chủ yếu là tôi trình bày chi tiết về cái chìa khoá.

“Để tôi nói rõ lại xem nhé,” thanh tra Canavan nói, khi tôi đã trình bày xong. “Cô nghĩ hai cô gái này - theo tôi hiểu, đang là sinh viên năn nhất, vừa mới đến thành phố, và đang tràn đầy cái thứ mà con gái tôi, học chuyên ngành tiếng Pháp vẫn gọi là joie de vivre, niền say mê cuộc sống - sẽ không bao giờ nhảy lên nóc thang máy để cưỡi cho vui. Cô nghĩ có ai đó đã đi quanh đây, mở cửa thang máy khi chưa đến buồng thang và đây mấy cô gái này xuống cho chết. Tôi hiểu vậy có đúng không?”

Nghe viên thanh tra trình bày lại sự việc theo cách ấy, tôi mới nhận ra lý lẽ của mình nghe thật ngốc nghếch hết sức. Còn hơn cả ngốc nghếch ấy chứ. Ngu xuẩn!

Chỉ trừ... chỉ trừ Ziggy!

“Cứ cho là cô nói đúng,” thanh tra Canavan nói. “Thì đầu tiên, làm thế quái nào mà cái người làm việc này lấy được chìa khoá thang máy đã? Cô nói bọn cô giữ nó trong một cái hộp được khoá đằng sau... đằng sau cái gì nhỉ? Cái bàn ở kia?”

“Vâng,” tôi nói.

“Thế ai được ra vào chỗ ấy? Ai cũng được à?”

“Không,” tôi nói. “Chỉ các sinh viên phụ việc và nhân viên toà nhà thôi.”

“Vậy cô nghĩ một kẻ nào đó làm việc cho cô đang đi loanh quanh, rồi giết hại các cô gái, đúng không? Kẻ nào đây, hử?” ông ta chỉ vào bác Pete, đang đứng sau bàn bảo vệ, nói chuyện với một người lính cứu hoả. “Hay gã kia? Hay gã đó?” ông ta chỉ tay vào Carl, người mà lúc này trông hãy còn nhợt nhạt thấy rõ, tuy thế vẫn đang mô tả lại những gì mình đã nhìn thấy dưới đáy giếng thang cho một cảnh sát mặc đồng phục.

“Okay,” tôi nói, bắt đầu cảm thấy muốn chết quách cho xong. Bởi vì tôi phát hiện ra là mình ngu không thể tả được. Chỉ trong vòng có năm giây, lão thanh tra này đã bắn thỗ chỗ mớ lý lẽ của tôi, giờ trông nó chả khác gì miếng pho-mát Thuỵ Sĩ.

Nhưng mà...

“Okay, có lẽ ông nói đúng. Nhưng có lẽ...”

“Có lẽ tốt nhất cô nên chỉ cho tôi chỗ cô đãcất cái chìa khoá bị mất đó,” thanh tra Canavan nói và đứng thẳng dậy. Lúc đi theo ông ta đến bàn tiếp tân, tôi vui hẳn lên khi thấy mình đã đúng” sơn nhũ hồng bám đầy vai ông ta như thể ông ta vừa được rắc phép tiên vậy.

Khi đến bên bàn tiếp tân, tôi thấy Tina đã biến đi đâu mất. Tôi liếc một cái nhìn dò hỏi về phía bác Pete.

“Bưu kiện,” bác Pete ngắt quãng cộc đối thoại của mình và anh lính cứu hoả để nói với tôi, ý là Tina đang áp giải người đưa thư vào căn phòng dưới sảnh, nơi chúng tôi cất giữ tất cả các bưu kiện, đợi đến khi sinh viên được thông báo xuống nhận.

Tôi gật đầu. Dù trời nắng hay mưa, dù có mưa đá hay tuyết rơi, thư vẫn phải đến... ngay cả nếu có một cô gái đang nằm chết dưới đáy thang máy.

Tôi luồn vào phía sau bàn, phớt lờ cái điện thoại đang réo inh tai, bước thẳng đến chỗ chiếc hộp đựng khoá.

“Đây là nơi bọn tôi để khoá,” tôi giải thích với thanh tra Canavan, người đã đi theo tôi qua cửa vào bàn tiếp tân, và giờ đang đứng với tôi sau quầy. Chiếc hộp đựng khoá rất lớn, làm bằng kim loại, dựng sát tường. Trong hộp treo từng dãy từng dãy chìa khoá. , Có tất cả 300 cái, cứ mỗi phòng trong toà nhà đều có một chìa dự phòng, cộng với đủ loại khoá chỉ dành riêng cho nhân viên. Về căn bản, trông chúng đều giống nhau, trừ cái chìa khoá mở cửa thang máy, chìa này có hình chữ L, khác hẳn với những cái thông thường.

“Vậy la để lấy được chìa khoá, ta phải vào đây,” thanh tra Canavan nói. Tôi không bỏ qua chi tiết lông mày xám của ông ta nhướng lên khi nhìn thấy tất cả các túi đựng thư đang chất một đống lùm lùm dưới chân chúng tôi.

Chiếc bàn này chẳng phải là một nơi được canh chừng cẩn mật gì cho cam. “Và để vào được đây, ta phải đi qua bàn bảo vệ, mà chỗ đó lại có người trực 24/24 mỗi ngày.”

“Đúng,” tôi nói. “Các nhân viên bảo vệ biết ai được phép đi vào phía sau bàn, ai không. Họ sẽ không cho phép ai vào trong này, trừ phi người đó làm việc ở đây. Và thường lúc nào cũng có một nhân viên ở sau quầy, người này sẽ không cho bất cứ ai sờ tới mấy cái chìa khoá, trừ khi người đó là nhân viên của khu nhà, chúng tôi cũng bắt phải đăng ký mượn. Chìa khoá ấy mà. Nhưng chẳng có ai ký mượn cái chìa khoá thang máy này cả. Nó đã... biến mất.”

“Ừ,” thanh tra Canavan nói. “Ban nãy cô đã nói điều đó rồi. Nghe này, hiện giờ tôi còn có vài vụ án thật sự - gồm ột vụ đâm chết ba người trong căn hộ tại một tiệm bánh ở Broadway - cần phải điều tra. Nhưng cô vui lòng chỉ cho tôi chổ mà các cô vẫn treo cái chìa đặc biệt ấy, cái chìa có thể chứng minh là cô gái được nói đến ở đây không chết vì tai nạn xem nào.”

Tôi lướt qua đám móc chìa khoá, thầm nghĩ mình nhất định sẽ giết Cooper. Thì đấy, thật không tin nổi là anh ta lại xúi tôi làm cái trò này. Lão thanh tra này có tin tôi đâu. Vụ lão nhìn thấy cái ảnh tôi trong album Sugar Rush đã tệ rồi. Nếu có một cái gì đấy có thể hạ thấp uy tín của một người, thì đó chính là tấm poster to bằng người thật của cô ta trong bộ váy mini vẽ hình hổ báo đang gào vào một cái mic ở khu phố mua sắm lớn của Mỹ.

Và ừ, việc tôi tin rằng bọn con gái không lướt thang máy - đặc biệt là bọn con gái trường tư, bọn con gái thích Ziggy - có thể không được coi là bằng chứng sắt đá, nhưng còn cái chìa khoá bị mất thì sao? Cái đó thì sao?

Tuy nhiên, khi lướt qua cái móc vẫn treo chiếc chìa khoá thang máy, tôi chợt nhìn thấy một thứ khiến cho máu tôi lạnh ngắt đi.

Bởi vì ở đó, ngay chỗ cái móc treo chìa khoá - đúng chỗ mà chỉ vài phút đó còn trống trơn - chính là cái chìa khoá thang máy.