Gió qua rặng liễu - Chương 05 part 2

nắp ở nhà mình, nó không chịu được cảnh nền đất của mình bị những con vật khác bới thành những cái rãnh nhỏ và tạo ra những đống đất. Trên các bức tường có treo những giỏ bằng dây kim loại bên trong trồng các loại dương xỉ, xen kẽ với những giá thước thợ đỡ những pho tượng thạch cao – Garibaldi(15), ấu chúa Samuel(16) và Nữ hoàng Victoria(17) và các vị anh hùng khác của nước Ý hiện đại. Suốt dọc một bên sân là một lối hẹp dành để chơi ky(18), có kê những chiếc ghế dài dành cho khán giả và những chiếc bàn gỗ nhỏ trên mặt có những vết tròn, chắc là đã từng có những vại bia đặt ở đó. Giữa sân là một cái ao tròn nhỏ nuôi cá vàng, xung quanh được kè bằng vỏ sò. Một công trình kiến trúc kì lạ vút lên ở giữa ao, cũng được bao bằng vỏ sò và trên đỉnh là một quả cầu lớn bằng kính tráng thủy, nó cho những hình ảnh phản chiếu hoàn toàn sai sự thật và gây một ấn tượng thú vị.

Gương mặt Chuột Chũi rạng rỡ lên khi nó nhìn thấy tất cả những thứ vô cúng thân yêu với nó đó, và nó giục Chuột Nước đi gấp qua cửa, thắp một ngọn đèn trong phòng lớn và đảo mắt nhìn quanh căn nhà của mình một lượt. Nó thấy bụi phủ dày lên tất cả mọi vật, thấy cái vẻ buồn tẻ, hoang vắng của căn nhà bị bỏ mặc đã lâu, cái quy mô nhỏ hẹp và xoàng xĩnh của nó cùng những đồ đạc sờn cũ bên trong – và lại ngồi gục xuống một cái ghế, hai tay ôm lấy cái mũi của mình. “Ồ, Chuột Nước à!” nó kêu lên buồn thảm, “sao mà tớ lại làm điều đó cơ chứ? Sao tớ lại đưa cậu đến căn nhà nhỏ bé, tồi tàn và lạnh lẽo này, vào một đêm như thế này, khi mà cậu lẽ ra lúc này có thể đã đang có mặt ở Bờ Sông, đang ngồi hơ chân trên một lò sưởi cháy rừng rực, và uống rượu mừng, cùng với tất cả các đồ đạc đẹp đẽ xung quanh!”

Chuột Nước chẳng bận tâm tới những lời tự thán sầu thảm của bạn mình. Nó chạy loanh quanh, hết mở các cửa ra vào lại xem xét các phòng và những cái tủ, rồi thắp đèn nến lên và đặt chúng ngay ngắn khắp nhà. “Căn nhà nhỏ bé này thật tuyệt vời!” nó hào hứng kêu to. “Rất chắc chắn.

Tính toán thật là đâu ra đấy! Nơi nào thứ nấy, hoàn toàn đúng chỗ! Chúng mình sẽ khiến nó đêm nay thật vui. Thứ đầu tiên chúng mình cần là một bếp lò thật tốt, tớ sẽ lo liệu việc này – tớ bao giờ cũng biết tìm các thứ ở chỗ nào. Vậy ra chỗ này là phòng khách? Tuyệt vời! Những chiếc giường ngủ nhỏ bé đặt trong tường kia là ý tưởng riêng của cậu à? Tuyệt! Bây giờ tớ sẽ kiếm củi và than, còn cậu đi kiếm cái khăn lau, Chuột Chũi à – cậu sẽ thấy trong ngăn kéo bàn dưới bếp có một cái đấy – và hãy cố mà lau chùi cho các thứ đồ đạc sáng bóng lên một chút. Nhanh tay nhanh chân lên nào, anh bạn thân mến!”

Được bạn mình vui vẻ động viên, Chuột Chũi vụt đứng dậy và hăm hở dùng hết sức lực mà lau chùi, trong lúc đó Chuột Nước chạy loanh quanh, tay ôm những bó nhiên liệu và chẳng mấy chốc đã có một ngọn lửa dễ chịu cháy rực rỡ bốc lên ống khói. Nó gọi Chuột Chũi đến sưởi ấm nhưng lúc này cu cậu đã lại nhanh chóng rơi vào một trận buồn ghê gớm, vừa gieo mình xuống một chiếc tràng kỷ vừa úp mặt vào cái khăn lau.

“Chuột Nước ơi,” nó rên rỉ, “Biết lấy gì để cậu ăn tối đây hả con vật khốn khổ, đang vừa lạnh vừa đói và mệt mỏi kia? Tớ chẳng có gì đãi cậu – chẳng có gì – một mẩu bánh mì cũng không!”

“Cứ bó tay đành chịu thì cậu thật là một thằng tồi!” Chuột Nước nói, vẻ trách móc. “Mà tớ vừa nhìn thấy một cái mở hộp cá mòi trên cái chạn ở nhà bếp, rất rõ ràng; và mọi người đều biết như vậy nghĩa là có cá mòi đâu đó quanh chỗ ấy. Cậu đứng dậy đi, thật bình tĩnh vào và hãy cùng đi tìm với tớ.”

Thế là hai đứa đi tìm, lục lọi khắp các tủ và dốc sạch các ngăn kéo. Cuối cùng thì kết quả cũng không đến nỗi đáng thất vọng: một hộp cá mòi, một hộp bánh bích quy còn gần đầy và một cái xúc xích Đức được bọc bằng giấy bạc.

“Cả một bữa tiệc dành cho cậu đấy!” Chuột Nước nhận xét trong lúc nó bày bàn. “Tớ biết là có vài con vật cũng mong được mời ngồi ăn tối với chúng mình đêm nay đấy!”

“Không bánh mỳ!” Chuột Chũi đau buồn rên rỉ, “không bơ, không…”

“Không pa-tê gan, không rượu sâm banh!” Chuột Nước vừa tiếp lời vừa toét miệng cười. “Và điều này khiến tớ nhớ đến – cái cửa nhỏ ở cuối đường hầm là cái gì ấy nhỉ? Cố nhiên là hầm chứa của cậu rồi! Mọi thứ đồ xa xỉ trong cái nhà này! Cậu hãy chờ tớ một chút.”

Nó tiến về phía cửa hầm chứa và một lát sau đã quay lại, người hơi bị dính bụi, mỗi tay cầm một chai bia và mỗi nách kẹp một chai nữa. “Xem ra cậu là một gã ăn mày chơi sang, Chuột Chũi à,” nó nhận xét. “Cậu chẳng chịu nhịn thứ gì cả. Nơi này thực sự là căn nhà xinh xắn và vui nhộn nhất mà tớ từng có mặt. Mà này, cậu kiếm đâu ra những bức ảnh kia thế? Chúng quả khiến căn phòng nom có vẻ rất đầm ấm. Hiển nhiên là cậu rất thích căn phòng này, Chuột Chũi à. Hãy kể tớ nghe về nó đi, và bằng cách nào mà cậu đã khiến cho nó đẹp như bây giờ.”

Sau đó, trong lúc Chuột Nước bận rộn đi lấy bát đĩa, thìa dĩa và lấy mù tạt khuấy lên trong một cái chén nhỏ, thì Chuột Chũi, ngực vẫn còn phập phồng trong tâm trạng căng thẳng vì xúc động vừa qua, thuật lại – thoạt đầu còn hơi rụt rè nhưng khi đã thích chủ đề này thì lại trôi chảy hơn – nó đã dự kiến việc làm nhà ra sao, trù tính như thế nào và thực hiện được việc đó nhờ một di sản bất ngờ của một bà dì, và khu đất này là một phát hiện tuyệt vời và một món hời, còn những thứ còn lại đã mua được nhờ dành dụm vất vả và một “mứa độ bóp mồm bóp miệng” nhất định. Cuối cùng, đã vui vẻ phấn chấn trở lại, nó thấy cần phải đi mà vuốt ve những món tài sản của mình và nó xách cái đèn soi cho người bạn đến thăm nhìn rõ những đặc điểm của chúng và giải thích thật chi tiết về những món đồ đó, quên khuấy đi mất bữa ăn tối mà cả hai đứa đều đang rất cần đến. Chuột Nước lúc này đã đói lả nhưng vẫn cố không để lộ ra ngoài mặt, vừa gật gật đầu bằng một vẻ nghiêm túc vừa cau mày xem xét và chốc chốc lại nói, “Tuyệt vời,” và “Rất phi thường” mỗi khi nó có cơ hội đưa ra một lời bình phẩm.

Cuối cùng, Chuột Nước cũng thành công trong việc dụ bạn mình tới bàn ăn, và vừa mới bắt đầu thực sự sử dụng cái mở hộp cá thì những tiếng động từ cái sân trước ở bên ngoài vọng vào – những âm thanh nghe như tiếng những bàn chân nhỏ tí tẹo đang khua loạn xạ trên đá sỏi và tiếng rì rầm lộn xộn. Một vài câu đứt quãng lọt đến tai hai đứa – “Mà này, tất cả xếp hàng một – giơ cái đèn lồng cao lên một chút, Tommy – trước hết các cậu phải hằng giọng đã – không được ho sau khi tớ đếm một, hai, ba – Thằng nhóc Bill đâu rồi nhỉ? – Này, nhanh chân lên nào, tất cả bọn tớ đang chờ -“

“Có chuyện gì thế nhỉ?” Chuột Nước vừa hỏi vừa ngừng công việc của mình.

“Tớ nghĩ chắc là bọn chuột đồng,” Chuột Chũi nói, thái độ thoáng vẻ tự hào. “Bọn chúng vẫn thường đến khắp các nhà để hát mừng(19) vào thời gian này hàng năm. Chúng là một cơ sở từ thiện ra trò ở vùng này. Và chúng không bao giờ bỏ sót tớ – bao giờ chúng cũng tới Nhà Chuột Chũi cuối cùng; và trước kia tớ vẫn thường đãi rượu chúng, và đôi khi cả bữa ăn tối nữa, khi mà tớ có điều kiện. Nghe bọn chúng hát lần nữa là tớ lại thấy như trở lại thuở nào.”

“Bọn mình thử ra gặp chúng xem sao!” Chuột Nước vừa nói vừa đứng phắt dậy và chạy ra cửa.

Khi mở toang cánh cửa ra, hai đứa thấy ngay một cảnh tượng đẹp đẽ và phù hợp. Khoảng chín mười chú chuột đồng nhỏ bé, cổ quàng khăn len đỏ, đứng thành hình bán nguyệt trong cái sân trước được những tia sáng yếu ớt của một chiếc đèn lồng bằng sừng chiếu sáng, chúng thọc sâu hai tay vào túi quần, còn hai chân thì nhảy tung tăng cho ấm. Chúng rụt rè liếc nhìn nhau bằng đôi mắt tròn nhỏ sáng lấp lánh, vừa hơi cười khẩy vừa khụt

khịt và cứ rúc đầu hoài vào ống tay áo khoác của mình. Khi cửa mở ra, một trong số các chú chuột đồng lớn tuổi hơn, tay xách chiếc đèn lồng, vội nói ngay, “Nghe này, một, hai, ba!” và lập tức những cái giọng chí chóe nhè nhẹ của chúng vút lên không gian, ca vang lên một trong những bài hát mừng Lễ Giáng sinh cổ lỗ mà tổ tiên chúng đã sáng tác trên những cánh đồng hoang đầy băng giá, hoặc vào những lúc không đi đâu được vì tuyết rơi, phải ngồi lại bên lò sưởi, và truyền lại để hát trên những con phố lầy lội, trước những ô cửa sổ có ánh sáng đèn vào mùa Giáng sinh.

BÀI HÁT MỪNG

Hỡi tất cả dân làng,

Hãy mở toang cửa nhà mình,

Vào dịp lễ Giáng sinh đầy sương giá.

Dù gió có thể vào theo, và còn thêm tuyết nữa.

Vẫn mời chúng tôi nhé vào bên lò sưởi,

Để tá túc đợi chờ;

Và đến sáng là bạn sẽ có niềm vui!

Chúng tôi đứng đây trong mưa tuyết lạnh,

Miệng thổi những ngón tay và giậm giậm chân.

Từ chốn xa xôi chúng tôi đến chào các bạn-

Các bạn bên lò sưởi còn chúng tôi ngoài đường phố-

Chúc các bạn niềm vui vào buổi sáng!

Vì trước lúc nửa đêm trôi qua,

Bỗng một ngôi sao dẫn đường chỉ lối,

Cho niềm vui và ân huệ rơi xuống như mưa-

Ban phúc cho ngày mai và mãi mãi,

Niềm vui cho mọi buổi sáng!

Chàng Joseph(20) lặn lội nhọc nhằn qua dặm tuyết-

Nhìn thấy ngôi sao trên một chuồng ngựa thấp tè,

Nàng Mary(20) thì không thể đi xa hơn nữa-

Được lũ ngựa đón vào ngay dưới mái tranh kia.

Niềm vui thuộc về nàng vào buổi sáng.

Và khi các thiên thần lên tiếng hỏi

Ai là người đầu tiên nhìn thấy Chúa Hài Đồng?

Hóa ra lại chính là những con vật đó,

Trong cái chuồng hai vị đã qua đêm.

Niềm vui sẽ thuộc về chúng vào buổi sáng!

Các giọng hát ngừng lại, còn các ca sĩ thì rụt rè nhưng tươi cười và cứ liếc trộm nhau, sau đó tất cả trở lại yên tĩnh – nhưng chỉ là trong khoảnh khắc. Rồi chúng bỗng nghe từ tít trên cao và mãi tít xa, dọc con đường hầm mà chúng vừa đi qua, âm thanh nhè nhẹ thánh thót của một hồi chuông rung lên hân hoan gióng giả.

“Các cậu hát hay lắm!” Chuột Nước kêu to, vẻ nồng nhiệt. “Bây giờ tất cả các cậu hãy vào trong này sưởi ấm bên lò sưởi và dùng một chút gì thật nóng!”

“Phải đấy, nhanh lên, các chú chuột đồng,” Chuột Chũi hăm hở kêu lên. “Thật vui y như ngày xưa ấy! Vào rồi thì đóng cửa lại. Kéo cái tràng kỷ kia đến gần lò sưởi đi. Giờ thì các cậu chỉ đợi bọn tớ một chút thôi, trong lúc bọn tớ – Ồ, Chuột Nước!” nó tuyệt vọng kêu lên và gieo mình xuống một chiếc ghế, nước mắt vòng quanh. “Chúng mình đang làm cái quái gì thế nhỉ? Chúng mình chẳng có gì mà đãi bọn chúng!”

“Cậu cứ để tớ lo liệu toàn bộ việc đó,” Chuột Nước oai vệ nói. “Nào, cậu xách đèn lồng kia! Lại đây tôi bảo. Tôi cần bàn với cậu. Mà này, cậu hãy nói cho tôi biết quanh đây có cửa hàng nào còn mở cửa vào cái giơ khuya khoắt này không?”

“Sao, nhất định là có, thưa ông,” chú chuột đồng kính cẩn trả lời. “Vào dịp này trong năm các cửa hàng của chúng cháu giờ nào cũng mở cửa.”

“Vậy hãy nghe đây!” Chuột Nước nói. “Cậu hãy đi ngay lập tức – cậu và cái đèn lồng của cậu, và mua cho tôi-“

Tiếp theo đó, hai bên nhỏ to thì thầm với nhau, và Chuột Chũi chỉ nghe được câu được câu chăng, chẳng hạn – “Chú ý là phải tươi! – không, món ấy một cân là được rồi – bảo đảm mua đúng nhãn hiệu Buggins đấy, vì tôi không dùng bất kỳ loại nào khác – không, chỉ lấy thứ ngon nhất thôi – nếu không mua được ở đó thì cậu cố mà kiếm ở một nơi nào khác nhé – phải, cố nhiên rồi, hàng nội, không dùng đồ hộp đâu – được rồi, cậu cố làm cho thật tốt nhé!” Cuối cùng, có tiếng xủng xoẻng của những đồng kim loại trao tay, chú chuột đồng được cấp một cái rổ lớn để đựng các thứ sẽ mua và nó hối hả chạy ù đi, nó và cái đèn lồng của nó.

Những chú chuột đồng còn lại ngồi thành một hàng vắt vẻo trên chiếc tràng kỷ, vừa đu đưa những đôi chân nhỏ bé vừa tha hồ sưởi ấm bên lò sưởi và hơ những chỗ bị sưng vì lạnh cho tới khi chúng nóng ran lên. Trong khi đó, do không thể dễ dàng bắt chuyện với bọn chúng, Chuột Chũi chuyển sang hỏi chuyện gia đình và bắt mỗi đứa đọc tên cả một lô các em trai, có lẽ còn quá bé nên năm nay không được phép đi hát mừng nhưng mong sẽ rất sớm được cha mẹ đồng ý.

Trong khi đó Chuột Nước đang bận xem xét cái nhãn trên một trong những chai bia. “Tớ nghĩ đây là của hãng Old Burton,” nó nhận xét, vẻ đồng tình. “Cậu sành thật, Chuột Chũi à! Của độc đấy! Bây giờ chúng mình có thể hâm một chút bia được rồi. Cậu dọn các món ra đi, Chuột Chũi, trong khi chờ tớ mở nút chai.”

Việc chuẩn bị đồ uống và ấn sâu cái nồi hâm bằng thiếc vào giữa lò sưởi rực hồng chẳng mất mấy thời gian; và chẳng mấy chốc mỗi chú chuột đồng đã vừa nhấm nháp vừa ho và nghẹt thở (vì chỉ một chút rượu bia hâm nóng đã đủ say), rồi vừa dụi mắt và cười to, quên hết cả những lần mình đã lạnh trong đời.

“Mấy anh bạn này còn diễn được kịch nữa đấy,” Chuột Chũi nói với Chuột Nước. “Tự sáng tác và rồi đem diễn. Mà các cậu ấy diễn cũng rất hay! Năm ngoái các cậu ấy đãi bọn tớ một vở tuyệt vời, về một anh chàng chuột đồng bị một tên cướp biển tàn bạo bắt và buộc phải đẩy mái chèo khổ sai trên một chiếc thuyền Galê(21); và khi anh chàng trốn thoát trở về nhà thì cô người yêu đã vào một tu viện. Mà này, cậu kia, cậu có chân trong vở ấy, tôi nhớ mà. Hãy đứng lên mà kể một chút đi nào!”

Chú chuột đồng được nhắc tới liền đứng dậy, bẽn lẽn cười rúc rích rồi nhìn khắp quanh phòng nhưng vẫn câm như hến. Các bạn nó động viên nó, Chuột Chũi dỗ ngon dỗ ngọt và khích lệ nó nhưng chẳng gì có thể khiến nó vượt qua được nỗi sợ phải đứng trước khán giả. Tất cả mọi người còn đang bận tíu tít với nó như những người lái đò đang áp dụng các quy định của Hội Nhân đạo Hoàng gia đối với một trường hợp bị ngập nước quá lâu thì cái then cửa bỗng “xạch” một cái, cánh cửa mở ra và chú chuột đồng cùng cái đèn lồng lại xuất hiện, đang lảo đảo vì sức nặng của cái rổ.

Chẳng ai còn tiếp tục nói chuyện về việc diễn kịch nữa khi mà những món thực sự hấp dẫn trong cái rổ đã được đổ tung trên bàn. Dưới sự điều khiển của Chuột Nước, mỗi người đều phải làm một việc gì đó hoặc đi kiếm một cái gì đó. Sau đó ít phút, bữa ăn tối đã sẵn sàng, và Chuột Chũi trong lúc ngồi xuống ghế ở đầu bàn, cảm thấy lơ mơ như nằm mộng. Nó thấy cái mặt bàn lúc nãy còn thống trơn giờ đây đã xếp đầy những món ăn ngon, thấy gương mặt các bạn nhỏ của mình rạng rỡ lên khi chúng lao vào đánh chén ngay lập tức. Rồi, vì bản thân mình quả đã đói mèm, nó cũng ăn lấy ăn để những món ăn được cung cấp như thể bởi một phép màu kia và nghĩ suy cho cùng thì chuyến về nhà lần này hóa ra lại hạnh phúc biết bao. Chúng vừa ăn vừa trò chuyện về ngày xưa, còn những chú chuột đồng kể cho Chuột Chũi nghe những chuyện tầm phào mới nhất ở vùng sở tại và trả lời thật rành mạch cả trăm câu hỏi mà nó cần phải hỏi. Chuột Nước hầu như chẳng nói năng gì mà chỉ quan tâm sao cho từng vị khách ăn và ăn thật nhiều cái món mà mình thích và Chuột Chũi không phải lo phiền về bất cứ điều gì.

Cuối cùng, lũ chuột đồng lục tục ra về, cảm ơn và rối rít chúc mừng Giáng sinh, túi áo chúng căng phồng những món quà kỷ niệm dành cho các em trai, em gái ở nhà. Khi cánh cửa đã đóng lại sau đứa cuối cùng trong bọn chúng và tiếng lách cách của những chiếc đèn lồng đã chìm hẳn, Chuột Chũi và Chuột Nước khơi lại bếp lò, dọn những cái ghế, pha cho mình ly rượu bia hâm nóng trước khi đi ngủ, và trao đổi với nhau về các sự kiện trong một ngày dài dằng dặc vừa qua. Cuối cùng, Chuột Nước vừa ngáp dài vừa nói, “Chuột Chũi thân mến ơi, tớ sắp gục đây này. Đơn giản vì từ ‘buồn ngủ’ không thật đúng. Giường của cậu ở phía bên kia hả? Hay lắm, vậy tớ sẽ ngủ giường này. Ngôi nhà nhỏ bé này mới tuyệt làm sao! Mọi thứ đều rất là tiện lợi!”

Nó trèo lên giường, quấn chặt chăn vào người và giấc ngủ gom lấy nó ngay tức khắc, như một vạt lúa mạch được đặt vào vòng tay của chiếc máy gặt.

Anh chàng Chuột Chũi mệt mỏi cũng vui mừng được đi ngủ ngay, và chỉ một loáng nó đã gối đầu lên cái gối của mình, rất vui sướng và mãn nguyện. Nhưng trước khi nhắm mắt lại, nó còn nhìn quanh gian phòng cũ kĩ của mình, êm ái trong ánh lửa lò sưởi rực rỡ đang lung linh hoặc ngưng đọng trên những đồ vật thân quen đã vô tình trở thành một bộ phận của đời nó, và giờ đây đang tươi cười đón nó trở về, không chút oán hận. Lúc này nó đang ở trong đúng cái tâm trạng mà cậu bạn Chuột Nước lịch thiệp đã lặng lẽ hành động để đem đến cho nó. Nó nhận thấy rõ ràng cái căn phòng này mới mộc mạc, bình dị và thậm chí nhỏ hẹp làm sao, mà cũng nhận thấy rõ ràng căn phòng ấy ý nghĩa biết bao đối với nó, và thấy được cái giá trị đặc biệt của một bến đậu như thế trong cuộc sống của mỗi người. Nó chẳng muốn từ bỏ cuộc sống mới cùng những khoảng không gian rực rỡ ở đó chút nào, chẳng muốn quay lưng lại với ánh nắng và không khí cùng tất cả những gì mà chúng dâng tặng cho nó để mà bò về nhà và ở lì tại đây. Cái thế giới ở trên kia thật là quá mạnh mẽ, vẫn mời gọi nó, thậm chí ngay cả tận dưới này, và nó biết là mình phải trở lại cái sân khấu lớn hơn ấy. Nhưng thực cũng tốt khi nghĩ rằng nó có căn nhà này để mà trở về, nơi này hoàn toàn là của riêng nó, những đồ đạc này đã rất vui mừng được gặp lại nó và nó có thể tin chắc rằng chúng lúc nào cũng chào đón mình một cách bình dị như thế.

————————————————–

14. Gothic: theo phong cách của người Goth, phổ biến ở Tây Âu.

15. Giuseppe Garibaldi (1807 – 1882): một nhà lãnh đạo quân sự người Italia có công trong việc thống nhất đất nước này – ND

16. Samuel: con trai của nữ hoàng Anh Victoria.

17. Nữ hoàng Victoria (1819 – 1907) trị vì nước Anh từ năm 1837 cho tới khi mất – ND.

18. Skittle: con ky là một đoạn gỗ hình cái chai trong trò chơi ky. Những người chơi lăn một quả bóng để làm đổ các con ky – ND.

19. Hát mừng (carol-singing), việc một tốp người đến các gia đình mà hát về Lễ Giáng sinh hoặc các bài ca vui vẻ để chúc mừng, theo tập quán của người dân nông thôn nước Anh – ND.

20. Theo kinh thánh, Joseph và Mary là hai vợ chồng; và Mary đã sinh ra Jesus trong chuồng gia súc – ND.

21. Thuyền Galê: (galley), thuyền dài, nông lòng, thường do nô lệ hay tội phạm chèo, trong thời cổ Hy Lạp hay La Mã – ND.