Người giúp việc - Chương 27-P1

TÔI NHÌN CHÒNG CHỌC chiếc điện thoại trong bếp. Lâu lắm rồi chẳng có ai gọi đến đây, trông nó chẳng khác gì một thứ đồ vật chết treo trên tường. Có một bầu không khí im lặng rùng rợn bao trùm khắp mọi nơi - ở thư viện, ở hiệu thuốc nơi tôi mua các thứ thuốc men cho mẹ, trên phố High nơi tôi mua mực cho máy đánh chữ, và trong chính ngôi nhà này. Vụ ám sát tổng thống Kennedy xảy ra cách đây chưa đầy hai tuần đã giáng cho cả thế giới một đòn chết điếng. Dường như không một ai dám cả gan phá vỡ sự tê liệt ấy. Dường như trên đời chẳng còn điều gì khác đáng được gọi là quan trọng nữa.

Có vài lần hiếm hoi điện thoại đổ chuông, đó luôn là bác sỹ Neal, gọi đến để báo thêm những kết quả xét nghiệm xấu khác, hoặc để kiểm tra tình hình của mẹ. Thế nhưng, thỉnh thoảng tôi vẫn nghĩ đó là Stuart, dù rằng lần cuối cùng anh ấy gọi điện đã là năm tháng trước. Mặc dù rốt cuộc tôi cũng hết chịu nổi và nói thẳng với mẹ rằng hai đứa đã chia tay. Trông mẹ sốc lắm, đúng như tôi đã lường trước, nhưng ơn trời, mẹ chỉ thở dài.

Tôi hít một hơi thật dài, bấm số không, và giam mình trong kho chứa thức ăn. Tôi đọc cho nhân viên tổng đài số máy đường dài và chong tai chờ đợi.

“Nhà xuất bản Harper and Row, xin hỏi quý khách cần gặp ai?”

“Xin nối máy cho tôi đến văn phòng bà Elaine Stein.”

Tôi chờ thư ký của bà ta nhấc máy, trong bụng thầm ước giá mình làm việc này sớm hơn. Nhưng gọi điện thoại vào đúng tuần ngài Kennedy mất có vẻ không ổn chút nào, tôi nghe bản tin báo hầu hết các cơ quan, công sở đều đóng của. Sau đó lại đến tuần Lễ tạ ơn và khi tôi gọi, tổng đài báo lại không có ai nhấc máy, vậy là tôi đã gọi đi muộn một tso với dự tính.

“Elaine Stein nghe.”

Tôi chớp mắt, ngạc nhiên vì đó không phải thư ký của bà ta. “Chị Stein, tôi xin lỗi, tôi là - Eugenia Phelan. Ở Jackson, Mississippi.”

“Vâng... cô Eugenia.” Bà ta thở dài, hiển nhiên bà ta đang cáu vì đã lỡ tự mình nghe điện thoại.

“Tôi gọi để báo cho chị biết rằng bản thảo sẽ sẵn sàng ngay sau năm mới. Tôi sẽ gửi cho chị vào tuần thứ hai của tháng Một.” Tôi tươi cười trình bày trơn tru những câu đã tập dượt từ trước.

Đáp lại chỉ là sự im lặng, ngoại trừ một hơi thuốc phả vào điện thoại. Tôi ngồi nhấp nhổm trên thùng bột mì. “Tôi... là người viết về các phụ nữ da màu? Ở Mississippi ấy?”

“Có, tôi nhớ,” bà ta đáp, nhưng tôi không dám chắc bà ta có nhớ thật không. Nhưng rồi bà ta nói, “Cô là người đăng tuyển vị trí biên tập viên. Dự án của cô triển khai đến đâu rồi?”

“Gần xong rồi. Chúng tôi chỉ phải hoàn tất hai cuộc phỏng vấn nữa thôi, tôi đang phân vân không biết nên gửi thẳng đến cho chị hay gửi cho thư ký của chị.”

“Không không, tháng Một thì không được rồi.”

“Eugenia? Con có ở trong nhà không?” Tôi nghe tiếng mẹ gọi.

Tôi bịt ống nghe điện thoại. “Mẹ chờ con một chút,” tôi hét, tôi biết nếu tôi không đáp lại, mẹ sẽ xông vào đây.

“Cuộc họp biên tập viên cuối cùng của năm là vào ngày hai mốt tháng Mười hai,” bà Stein nói tiếp. “Nếu cô muốn bản thảo này có cơ hội được đọc tới, tôi phải có nó trong tay trước thời điểm đó. Nếu không nó sẽ bị bỏ vào Đống. Cô Phelan, cô sẽ không thích vào Đống chút nào đâu.”

“Nhưng... chị đã bảo tôi là tháng Một cơ mà...” Hôm nay là ngày mồng hai tháng Mười hai. Như vậy tôi chỉ còn mười chín ngày để hoàn thành cả cuốn sách.

“Hai mốt tháng Mười hai là ngày mọi người nghỉ lễ, sau đó sang năm mới, chúng tôi sẽ bận ngập đầu ngập cổ với các dự án từ danh sách tác giả và nhà báo của chính nhà xuất bản. Cô Phelan, nếu là kẻ vô danh tiểu tốt, như cô bây giờ, thì trước ngày hai mốt tháng Mười hai là cánh cửa cho cô. Cánh cửa cuối cùng.

Tôi nuốt nước bọt, “Tôi không biết liệu...”

“Nhân tiện, có phải cô vừa nói chuyện với mẹ cô đấy không? Cô vẫn sống ở nhà bố mẹ à?”

Tôi cố nghĩ ra một lời nói dối - mẹ đến thăm tôi, mẹ đang ốm, mẹ chỉ tạt qua, vì tôi không muốn bà Stein biết rằng tôi chưa làm được gì cho cuộc đời chính mình. Nhưng rồi tôi thỉ thở dài, “Vâng, tôi vẫn ở nhà.”

“Thế còn người phụ nữ da màu đã nuôi cô. Tôi đoán bà ta vẫn còn ở cùng gia đình chứ?”

“Không, bác ấy đi rồi.”

“Ừm. Tệ quá nhỉ. Cô có biết chuyện gì đã xảy ra với bà ta không? Tôi vừa chợt nghĩ ra, cô sẽ cần có một phần về người giúp việc của chính cô.”

Tôi nhắm mắt lại, cố nén cơn giận. “Tôi không... biết, thật tình.”

“Thế thì cố tìm hiểu xem, nhất định cô phải cho vào đấy. Có thế tác phẩm mới có thêm chất cá nhân.”

“Vâng,” tôi đáp, mặc dù không hiểu mình sẽ xoay xở cách nào để kết thúc phần truyện của hai người còn lại kịp thời hạn, đừng nói đến viết về Constantine. Chỉ riêng ý nghĩ viết về bác ấy khiến tôi thầm ước, từ tận đáy lòng mình, rằng bác ấy đang có mặt ở đây.

“Chào cô, cô Phelan. Tôi hy vọng cô sẽ hoàn thành kịp hạn chót,” bà ta nói, nhưng trước khi dập máy, bà ta càu nhàu, “còn nữa, vì Chúa, cô là một phụ nữ hai mươi tư tuổi có ăn học đàng hoàng kia mà. Đi kiếm ngay một căn hộ đi.”

TÔI BỎ MÁY, thẫn thờ trước cái tin về hạn cuối và việc bà Stein một hai đòi đưa Constantine vào cuốn sách. Tôi biết mình phải bắt tay vào làm việc ngay lập tức, nhưng tôi lại vào phòng ngủ xem tình hình mẹ ra sao. Ba tháng vừa qua, mấy khối u của mẹ ngày càng tệ. Mẹ sút cân nhiều hơn và không thể qua nổi quá hai ngày mà không nôn mủa. Ngay đến bác sỹ Neal cũng lộ vẻ sửng sốt khi tôi đưa mẹ đến khám tuần trước.

Mẹ nằm trên giường săm soi tôi từ đầu đến chân. “Chẳng phải hôm nay con phải họp hội chơi bài sao?”

“Hoãn rồi mẹ ạ. Thằng bé nhà Elizabeth bị đau bụng,” tôi nói dối. Quá nhiều lời dối trá đã được nói đang chen nhau chật ních cả căn phòng. “Mẹ thấy thế nào?” Tôi hỏi. Chiếc chậu sứ trắng cũ đặt trên giường ngay bên cạnh mẹ. “Mẹ có mệt không?”

“Mẹ không sao. Đừng có nhăn trán như thế, Eugenia. Không tốt cho da con đâu.”

Mẹ vẫn chưa biết rằng tôi đã bị đá khỏi hội bài và Patsy Joiner đã có bạn chơi tennis khác. Tôi không được mời tới bữa tiệc cocktail hay lễ tắm bé nào nữa, hay bất cứ dịp tụ họp nào mà Hilly sẽ góp mặt. Chỉ trừ Hội phụ nữ. Trong các cuộc họp, các cô gái khác chỉ nói rất ngắn gọn, luôn vào thắng vấn đề chính khi bàn về báo hội với tôi. Tôi cố thuyết phục bản thân rằng mình không bận tâm. Tôi gắn chặt mình với chiếc máy đánh chữ và hầu như không rời nhà. Tôi tự nhắc bản thân mình, đó là những gì tôi đáng phải nhận khi dám bỏ ba mươi mốt cái bồn cầu trên sân trước của cô gái quyền lực nhất thị trấn. Mọi người tất sẽ đối xử với tôi hơi khác trước kia.

ĐÃ GẦN BỐN THÁNG trời qua đi kể từ ngày cánh cửa giữa tôi và Hilly đóng sập lại, cảnh cửa đúc bằng băng dày tới mức có lẽ phải cần đến một trăm mùa hè Mississippi mới đủ làm nó tan chảy. Không phải tôi chưa lường được hậu quả. Tôi chỉ không nghĩ nó lại kéo dài đến thế.

Giọng Hilly trên điện thoại nghe trầm đục, nhỏ, dường như cô đã hò hét suốt cả buổi sáng hôm đó. “Cậu là đồ bệnh hoạn,” cô nghiến ngấu. “Đừng nói chuyện với tôi, đừng nhìn tôi. Đừng chào con tôi.”

“Hilly, đó thực ra chỉ là lỗi in ấn thôi mà,” là tất cả những gì tôi nghĩ ra được.

“Tôi sẽ đích thân đến nhà nghị sĩ Whitworth để bảo ông ấy rằng chính cậu, Skeeter Phelan, là một tai họa đối với chiến dịch tranh cử của ông ấy trên Washington. Một vết nhơ trên thanh danh của ông ấy nếu Stuart còn dính líu đến cậu.”

Tôi rúng động khi mới nghe đến tên anh, mặc dù khi ấy chúng tôi đã chia tay được vài tuần lễ. Tôi có thể mường tượng ra cảnh anh ấy quay mặt đi, không thèm để tâm đến bất kỳ điều gì tôi làm nữa.

“Cậu biến sân nhà tôi thành một trò hề,” Hilly nói. “Cậu đã âm mưu bôi nhọ gia đình tôi từ bao lâu rồi?” Hilly không hiểu một điều, rằng tôi chẳng có âm mưu nào hết. Khi tôi bắt tay vào đánh máy sáng kiến vệ sinh phòng dịch của cô cho báo hội, gõ những chữ như bệnh tật và hãy bảo vệ bản thân mình và hân hạnh được giúp đỡ, dường như có thứ gì đó nứt bung ra trong tôi, không khác một quả dưa hấu là mấy, mát rượi, êm dịu và ngọt ngào. Tôi luôn nghĩ trạng thái điên hẳn phải là một cảm giác cay đắng, đen tối lắm, nhưng nó thật sự vô cùng viên mãn và khoái lạc một khi bạn đã thực sự chìm đắm trong đó. Tôi đã trả cho mấy đứa em trai của Pascagoula, mỗi đứa hai lăm đô-la, để vác mấy cái bồn cầu vứt đi bỏ trước bãi cỏ nhà Hilly, chúng sợ nhưng vẫn sẵn lòng làm. Tôi còn nhớ đêm hôm ấy trời tối như mực. Tôi nhớ mình đã cảm thấy may mắn biết bao vì một tòa nhà cũ đã bị phá sạch bên trong và ngoài bãi phế thải có cơ man bồn cầu vứt đi để tôi có thể nhặt tuỳ thích. Đã hai lần tôi mơ thấy mình được quay lại đó. Tôi không hối tiếc điều gì, nhưng tôi không còn cảm thấy mình may mắn đến thế nữa.

“Thế mà cậu dám tự gọi mình là một con chiên ngoan đạo cơ đấy,” là những lời cuối cùng Hilly dành cho tôi và tôi thầm nghĩ,Lạy Chúa. Tôi nói thế bao giờ?

Tháng Mười một năm nay, ngài Stooley Whitworth thắng cuộc đua trên Washington. Nhưng William Holbrook lại thất bại trong cuộc bầu cử địa phương để giành ghế nghị sĩ bang. Tôi dám chắc Hilly cũng đổ lỗi cho tôi vì vụ này. Chưa kể bao nhiêu công sức cô bỏ ra để gán ghép tôi với Stuart đã xôi hỏng bỏng không.

VÀI TIẾNG SAU Khi nói chuyện điện thoại với bà Stein, tôi rón rén quay lại để kiểm tra mẹ một lần cuối. Bố đã ngủ say bên mẹ. Một cốc sữa đặt trên bàn. Mẹ ngồi tựa lên mấy chiếc gối nhưng đôi mắt đã nhắm nghiền. Ngay khi tôi vừa ló đầu vào, mẹ bèn mở mắt ra.

“Me có cần con lấy cho mẹ cái gì không?”

“Mç chỉ nằm nghỉ vì bác sỹ Neal bắt vậy thôi. Con đi đâu đấy, Eugenia? Gần bảy giờ rồi đấy.”

“Con đi một tí rồi về ngay. Con chỉ lái xe loanh quanh thôi.” Tôi hôn mẹ, mong sao mẹ không hỏi thêm câu gì nữa. Khi tôi khép cánh cửa lại, mẹ đã chìm vào giấc ngủ.

Tôi phóng xe thật nhanh xuyên qua thị trấn. Tôi sự phải báo cho Aibileen biết hạn chót mới. Chiếc xe tải cũ giật lắc rổn rảng khi đi qua mấy cái ổ gà. Sau một mùa bông nhọc nhằn, chiếc xe càng xập xệ nhanh hơn. Đầu tôi chạm cả trần vì ai đó đã vặn lò xo ghế chặt quá. Tôi phải hạ cửa sổ xuống khi lái, khuỷu tay chìa ra giữ để cánh cửa khỏi rung. Cửa kính trước đã có thêm một vết nứt mới hình mặt trời lúc hoàng hôn.

Tôi đỗ xe cạnh một cột đèn trên phố State đối diện công ty giấy. Khi tôi nhìn sang, Elizabeth cùng Mae Mobley và Raleigh đang chen vai thích cánh ở băng ghế trước của chiếc Corvair trắng, đang trên đường về nhà sau bữa tối ở đâu đó, tôi đoán thế. Toàn thân tôi cứng đờ, tôi xhông dám liếc sang lần nữa, sợ rằng cô ấy sẽ nhìn thấy tôi và hỏi tôi đang làm gì trong xe tải. Tôi để họ lái vượt lên trước, vừa dõi theo đèn đuôi xe, vừa cố nén luồng hơi nóng bỏng đang dâng lên tận cổ. Lâu lắm rồi tôi chưa nói chuyện với Elizabeth.

Sau vụ bồn cầu, Elizabeth và tôi gắng gượng lắm mới duy trì được tình bạn. Thi thoảng chúng tôi vẫn nói chuyện qua điện thoại. Nhưng cô chỉ dừng lại ở một lời chào cùng vài câu vô thưởng vô phạt khi gặp tôi ở các cuộc họp Hội, vì Hilly sẽ trông thấy cô. Lần cuối cùng tôi ghé qua nhà Elizabeth đã cách đây một tháng.

“Trời, Mae Mobley lớn nhanh quá đi mất,” tôi nói. Mae Mobley cười e thẹn và giấu mình sau chân mẹ. Con bé giờ đã cao hơn nhưng vẫn béo mũm mĩm kiểu trẻ con.

“Như cỏ dại ấy,” Elizabeth nói, mắt nhìn ra ngoài cửa sổ, tôi bỗng thầm nghĩ, ví von về đứa con chính mình sinh ra như thế có kỳ quặc quá không. Cỏ dại.

Elizabeth vẫn mặc chiếc áo choàng tắm, tóc cuốn lô, sau cữ sinh nở, cô đã trở lại với thân hình còm nhom. Cô giữ nguyên một nụ cười gượng gạo. Cứ chừng vài giây một, cô lại nhìn đồng hồ, giơ tay sờ lên mấy chiếc lô cuốn. Chúng tôi chỉ đứng thơ thẩn trong bếp.

“Có muốn đến câu lạc bộ ăn trưa không?” Tôi hỏi. Đúng lúc đó Aibileen quày quả mở cửa bếp bước ra. Trong phòng ăn, tôi thoáng thấy những miếng ren lót Battenburg và dao nĩa.

“Tớ không đi được đâu, phải giục cậu về tớ ngại quá, nhưng... mẹ hẹn tớ ở tiệm Taylor Jewel rồi.” Cô lại lia mắt ra cửa sổ trước. “Cụ ghét chờ đợi lắm, cậu biết rồi đấy.” Nụ cười của cô vành ra theo cấp số mũ.

“Ô thế à, tớ xin lỗi, đừng để tớ làm cậu lỡ hẹn nhé.” Tôi vỗ lên vai cô và đi ra cửa. Bỗng tôi sực nhớ. Sao tôi dốt thế nhỉ? Bây giờ là mười hai giờ, thứ Tư. Hội chơi bài cũ của tôi.

Tôi cho con Cadillac chạy lùi trên dải đường dẫn vào nhà, trong lòng hối hận vì đã khiến cô phải sượng sùng đến thế. Qua cửa sổ, tôi thấy khuôn mặt cô giãn ra khi nhìn tôi ra về. Đó là lúc tôi chợt nhận ra: cô không xấu hổ vì đã làm tôi khó nghĩ. Elizabeth Leefolt xấu hổ vì sợ bị nhìn thấy đứng cùng tôi.

TÔI ĐỖ XE TRÊN PHỐ NHÀ AIBILEEN, cách nhà bác ấy chừng vài căn, tôi biết chúng tôi cần phải cảnh giác hơn bao giờ hết. Mặc dù Hilly không bao giờ đặt chân đến khu này, nhưng giờ đây cô một mối đe đọa đối với tất cả mọi người trong chúng tôi và tôi có cảm giác đôi mắt cô dõi theo mình khắp mọi nơi. Tôi hiểu cô sẽ hả hê đến nhường nào nếu phát hiện ra tôi làm chuyện này. Tôi không dám đánh giá thấp những gì cô dám làm để tôi phải nếm mùi đau khổ trong suốt phần đời còn lại này.

Đó là một buổi tối tháng Mười hai hanh hao và một cơn mưa rào đã lộp bộp đổ xuống. Đầu cúi thật thấp, tôi hối hả bước dọc con phố. Cuộc nói chuyện ban chiều với bà Stein vẫn ong ong trong đầu. Tôi đã cố gắng phân loại ưu tiên cho những việc còn cần phải hoàn thành. Nhưng phần khó nhất là, tôi sẽ phải hỏi Aibileen thêm một lần nữa về những gì đã xảy ra với Constantine. Tôi không thể thuật lại trọn vẹn câu chuyện về Constantine nếu không biết những chuyện đó. Chỉ phản ánh một phần câu chuyện sẽ làm hỏng hết ý nghĩa của cuốn sách. Như vậy đâu thể gọi là nói ra sự thật.

Tôi vội vã bước vào căn bếp nhà Aibileen. Vẻ mặt tôi lúc ấy hẳn đã giúp bác linh cảm được có điều chẳng lành.

“Có chuyện gì vậy? Có người trông thấy cô à?”

“Không,” tôi đáp, đoạn thò tay rút tập giấy trong túi ra. “Sáng nay tôi vừa nói chuyện với bà Stein.” Tôi kể lại cho bác ấy tất cả những gì tôi biết, về hạn chót, về “Đống.”

“Rồi, vậy là...” Aibileen nhẩm đếm số ngày trong đầu, y như tôi đã làm suốt cả chiều nay. “Vậy là chúng ta chỉ còn hai tuần rưỡi thay vì sáu tuần. Ôi trời thần ơi, ngần đấy thời gian thì làm sao mà đủ. Ta vẫn còn phải viết nốt phần của Louvenia và chuốt lại phần của Faye Belle - còn phần của Minny cũng đã hoàn chỉnh đâu... Cô Skeeter, ta còn chưa đặt tựa sách.”

Tôi vục đầu xuống hai bàn tay, cảm thấy như mình đang chìm dần xuống nước. “Mà đã hết đâu,” tôi nói. “Bà ấy... muốn tôi viết về Constantine. Bà ấy hỏi tôi... chuyện gì đã xảy ra với bác ấy.”

Aibileen đặt tách trà của mình xuống.

“Aibileen, tôi biết viết thế nào đây, khi chẳng biết chuyện gì đã xảy ra cả. Thế nên nếu vú không nói với tôi được... tôi đang không biết có ai khác có thể kể lại cho tôi hay không.”

Aibileen lắc đầu. “Tôi đồ là họ sẽ nói thôi,” bác nói, “nhưng tôi không muốn một người nào khác kể lại cho cô nghe chuyện ấy.”

“Vậy... vú sẽ nói chứ?” gỡ cặp kính ra, day day mắt. Bác đeo kính trở lại và tôi cứ nghĩ mình sẽ nhìn thấy một khuôn mặt mệt mỏi. Bác ấy đã phải làm quần quật cả ngày và giờ lại phải lăn thây xả xác ra để cố bắt kịp hạn chót. Tôi nhấp nhổm trên ghế, chờ câu trả lời từ bác.

Nhưng trông bác không vương một tia mệt mỏi nào hết. Bác ngồi thẳng dậy và gật đầu quả quyết. “Tôi sẽ viết. Cho tôi xin vài ngày. Tôi sẽ cho cô biết mọi chuyện đã xảy ra với Constantine.”

TÔI NGỒI SƯỚT MƯỜI LĂM TIẾNG ĐỒNG HỒ không nghỉ để biên soạn phần phỏng vấn Louvenia. Tối thứ Năm, tôi đi họp Hội. Tôi chỉ muốn ra khỏi nhà, để không phải quay cuồng với những mối lo và nhấp nhổm vì hạn chót cho cuốn sách nữa. Cây thông Noel bắt đầu tỏa ra mùi hắc nồng nặc, còn những trái cam ướp hương liệu lại có vẻ rữa nát ghê người. Lúc nào mẹ cũng thấy lạnh và cả ngôi nhà của bố mẹ làm tôi có cảm giác như mình đang lặn ngụp trong một thùng bơ nóng khổng lồ.

Tôi dừng bước trên bậc thềm trụ sở Hội, hít vào một hơi thật dài bầu không khí mùa đông tinh khiết. Nói ra thì thảm hại thật, nhưng tôi mừng vì vẫn còn báo Hội để làm. Mỗi tuần lại có một lần tôi thực sự có cảm giác mình vẫn là một phần của cuộc sống. Và biết đâu, có khi lần này sẽ khác, khi mùa nghỉ lễ đã bắt đầu.

Nhưng đúng giây phút tôi bước vào, những tấm lưng đồng loạt quay ra. Thái độ bất thừa nhận dành cho tôi phơi bày hoàn toàn lộ liễu, như thể có một bức tường bê tông đã mọc lên xung quanh tôi. Hilly chỉ nhìn tôi cười khẩy, rồi lập tức quay sang nói chuyện với một người khác. Tôi tiến sâu vào giữa đám đông và nhìn thấy Elizabeth. Cô mỉm cười và tôi vẫy tay. Tôi muốn tâm sự với cô về mẹ, nói rằng tôi đang lo lắm, nhưng trước khi tôi kịp lại gần, Elizabeth quay lưng, đầu cúi thấp và bỏ đi. Tôi về chỗ ngồi của mình. Chuyện này hoàn toàn mới, với cả cô ấy, và nơi này.

Thay vì ngồi ở hàng đầu như thường lệ, tôi lui xuống hàng cuối cùng, giận sôi người vì Elizabeth thậm chí chẳng thèm chào một câu. Ngồi bên cạnh tôi là Rachel Cole Brant. Rachel hầu như không đi họp vì còn bận một nách ba con và đang dở lấy bằng thạc sỹ môn Ngữ văn ở Đại học Millsaps. Tôi ước sao hai chúng tôi có thể thân nhau hơn, nhưng tôi biết cô quá bận rộn. Phía bên kia là cô ả Leslie Fullerbean dở hơi cùng đám mây gôm xịt tóc của nàng. Mỗi lần cô ta châm thuốc lá hẳn phải là một lần đùa giỡn với tử thần. Tôi cứ thắc mắc, nếu tôi ấn tay lên đỉnh đầu cô ta, không hiểu nước gôm có phun ra từ miệng cô ả không nhỉ.

Gần như tất cả các cô gái có mặt trong phòng đều chân bắt chữ ngũ, điếlá cháy đỏ kẹp trên tay. Đám khói tụ lại và vờn quanh trần nhà. Đã hai tháng nay tôi không hút hít gì, hơi khói khiến tôi thấy buồn nôn. Hilly bước lên bục diễn thuyết và thông báo các đợt vận động quyên góp sắp tới (quyên áo khoác, quyên đồ hộp, quyên sách, và cả trò xưa như trái đất, quyên tiền), và sau đó chúng tôi chuyển sang phần Hilly yêu thích nhất trong mỗi cuộc họp, danh sách phê bình. Đây là phần cô nêu tên những người đóng Hội phí chậm hoặc đi họp trễ hoặc không hoàn thành các nghĩa vụ nhân đạo của mình. Gần đây tôi luôn phải ngồi trong danh sách phê bình, không vì lý do này thì vì lý do khác.

Hilly mặc một chiếc váy chữ A may bằng len đỏ với một chiếc áo choàng không tay khoác bên ngoài, gọi là phong cách Sherlock Holmes, mặc dù trong phòng nóng như thiêu. Thỉnh thoảng, cô lại hất vạt áo trước ra sau vai như thể nó làm cô thấy vướng víu, nhưng trông vẻ mặt cô thì xem ra cô khoái cử chỉ đấy lắm, chứ chẳng phải phiền phức gì nết. Trợ lý Mary Nell đứng ngay cạnh, lâu lâu lại đưa cho cô những tờ ghi nhớ, Mary Nell có vẻ mặt của một con chó cảnh, chính xác là giống chó Bắc Kinh có bốn chân bé tí và cái mũi hếch tớn.

“Giờ chúng ta sẽ bàn đến một vấn đề rất lý thú.” Hilly nhận mấy tờ ghi nhớ do con chó cưng chuyển sang và đọc lướt qua.

“Ban chấp hành đã quyết định báo Hội của chúng ta sẽ được đổi mới một chút.”

Tôi ngồi thẳng lên. Chẳng phải tôi mới là người có quyền quyết định đối với những thay đổi liên quan đến báo Hội hay sao?

“Thứ nhất, chúng ta sẽ chuyển báo hội từ tuần san sang nguyệt san. Giá tem đã tăng lên sáu xu, nên chi phí như vậy là quá lớn. Và chúng ta sẽ thêm vào mục thời trang, điểm lại những những trang phục đẹp nhất mà các thành viên trong Hội mặc, và một mục trang điểm với những xu hướng mới nhất. À, dĩ nhiên là cả danh sách phê bình nữa. Cũng sẽ có trong báo.” Cô gật đầu, đưa mắt làm hiệu với vài thành viên.

“Và cuối cùng, phần thay đổi thú vị nhất: chúng tôi đã quyết định đặt tên cho ấn phẩm mới này là The Tattler. Theo tên tờ tạp chí Châu Âu tất cả các quý bà quý cô ở đó đều hâm mộ.”

“Cái tên yêu quá đi mất!” Mary Lou White rú rít còn Hilly quá hãnh diện về bản thân mình, đến nỗi cô còn chẳng buồn gõ búa nạt Mary Lou vì tội nói leo.

“Được rồi. Giờ đã đến lúc chọn tổng biên tập cho tờ nguyệt san mới, hiện đại của chúng ta. Có ứng cử viên nào không?”

Vài cánh tay giơ lên. Tôi ngồi đờ đẫn.

“Jeanie Price, ý chị thế nào?”

“Tôi bầu Hilly. Tôi đề cử Hilly Holbrook.”

“Chị thật dễ thương. Rồi, ai nữa?”

Rachel Cole Brant quay sang và nhìn tôi như muốn nói, Chị tin nổi không? Rõ ràng, cô là người duy nhất trong căn phòng này không biết chuyện giữa tôi và Hilly.

“Có người thứ hai nào bầu...” Hilly nhìn xuống bục diễn thuyết, làm như cô không thể nhớ được người vừa được đề cử là ai vậy. “Bầu Hilly Holbrook làm tổng biên tập không?”

“Tôi thứ hai.”

“Tôi thứ ba.”

Cộp - cộp, búa gõ xuống, vậy là tôi mất ghế tổng biên tập.

Leslie Fullerbean đang nhìn tôi chòng chọc với đôi mắt thô lố, tôi có thể thấy phía sau đó, nơi lẽ ra là não của cô ta, chẳng có gì cả.

“Skeeter, đó chẳng phải là công việc của chị hay sao?” Rachel nói.

“Nó từng là công việc của tôi,” tôi lẩm bẩm và đứng dậy đi thẳng ra cửa khi cuộc họp kết thúc. Không ai nói gì với tôi, không ai nhìn thẳng vào mắt tôi. Tôi ngẩng cao đầu.

Ở sảnh chờ, Hilly và Elizabeth đứng nói chuyện với nhau. Hilly gài lọn tóc sẫm ra sau tai, đoạn nở một nụ cười xã giao với tôi. Cô bỏ đi nói chuyện với người khác, nhưng Elizabeth vẫn đứng nguyên tại chỗ. Cô khẽ chạm vào cánh tay tôi khi tôi bước ra.

“Elizabeth à,” tôi nói nhỏ.

“Skeeter, tớ rất tiếc,” cô thì thầm và bốn mắt chúng tôi gắn chặt lấy nhau. Nhưng rồi cô lại nhìn lảng đi. Tôi bước xuống bậc thềm, đi ra bãi đỗ xe tối om. Tôi tưởng cô còn điều gì nữa muốn nói với tôi, nhưng có lẽ tôi đã nhầm.

SAU CUỘC HỌP HỘI, tôi không về thẳng nhà. Tôi hạ hết cửa kính của con Cadillac xuống, để làn gió buổi đêm phả lên mặt mình. Nó vừa ấm áp lại vừa lạnh lẽo. Tôi biết mình cần phải về nhà và tiếp tục hoàn thành cuốn sách, nhưng tôi đánh xe sang làn chính của phố State và phóng đi. Tôi chưa bao giờ cảm thấy ống rỗng như thế. Tôi không thể không nghĩ rằng những gì đen tối nhất đang đổ ập xuống đầu tôi. Tôi sẽ không bao giờ làm xong kịp hạn chót, bạn bè hắt hủi tôi, Stuart đã ra đi, mẹ thì...

Tôi không biết mẹ thì sao, nhưng tất cả chúng tôi đều biết vấn đề của mẹ trầm trọng hơn u dạ dày nhiều.

Quán bar Sun and Sand đã đóng cửa, tôi lái chậm lại, căng mắt ra nhìn, ánh đèn neon khi đã tắt đi có vẻ gì đó trông thật chết chóc. Tôi lướt qua tòa nhà Lamar Life cao ngất, qua những cột đèn giao thông nhấp nháy màu vàng. Lúc này mới là tám giờ tối song tất cả mọi người đã đi ngủ. Mỗi con người trong cái thị trấn này đã tìm đường trốn vào giấc ngủ bằng mọi phương cách khả dĩ.

“Ước gì mình có thể rời khồi nơi này,” tôi nói, giọng vang lên thật kỳ quái, xung quanh chẳng có một ai để nghe tôi nói cả. Trong bóng tối, tôi thoáng thấy hình ảnh chính mình từ đằng xa, như trong một bộ phim. Tôi trở thành một kẻ trong đám người vẫn phóng xe đi hoang khi đêm xuống. Lạy Chúa, tôi chính là gã Boo Radley của cái thị trấn này, y như trong truyện Giết con chim nhại.