Khúc Nam Ai - Chương 01-P2

Cứ như thế tháng này sang tháng khác, đoàn hát tí hon của ba má tôi đã len lỏi qua không biết bao nhiêu là thôn xã, ấp. Trong những năm tháng đó, đời thơ ấu của tôi thênh thang những mộng ước, đầy ắp những giấc mơ thật đẹp. Có một buổi sáng hồng, có những buổi chiều êm êm, có những đêm trăng sáng, có những rừng dừa, những vườn cây, những con sông, những con rạch, những ruộng lúa. Có nơi chúng tôi đã đi qua hai ba lần, có nơi chúng tôi trở lại rồi không ghé qua nữa. Nhưng mỗi một nơi dù đã đến trước kia rồi hay chưa bao giờ biết, lòng tôi, óc tôi cũng tìm được cái mới lạ. Tôi khao khát, tôi quen thuộc với sự thay đổi, với những chuyến di chuyển. Và vì vậy, tôi không chịu được khi phải ở lâu một nơi nào. Dù nơi đó nuôi sống chúng tôi đầy đủ. Mà đâu phải chỉ riêng tôi. Ai cũng vậy, ba tôi, mẹ tôi, bác Tư Tình, bác Bảy Viễn, người nào cũng nôn nao, háo hức được đi. Cứ ở mãi một nơi là chôn chân, khó chịu. Riêng mẹ tôi thì hơi đặc biệt một chút. Thỉnh thoảng, tôi nghe mẹ tôi nhắc nhở đến một mái nhà, một mảnh vườn. Điều đó hình như là niềm mơ ước sâu kín nhất của người. Thế nhưng, trước mặt ba tôi, mẹ tôi không bao giờ tỏ ý muốn dừng chân ở một nơi nào. Chỉ khi nào trên con đường di chuyển đi ngang qua một ngôi nhà xinh xắn, bà chép miệng bảo : giá như mình có một ngôi nhà như vậy. Những lúc đó, tôi thấy mắt ba tôi nheo lại, trán người hằn một vết nhăn. Thế thôi. Thật tình tôi cũng không biết gì hơn nếu không có một đêm nọ. Vâng, đêm đó, trời sáng trăng. Chúng tôi nghỉ hát vì không có khách. Ai cũng ngủ sớm. Nửa đêm tôi chợt tỉnh giấc vì không cảm thấy có mẹ bên cạnh. Tôi đưa mắt tìm kiếm. Mẹ tôi không ngủ, người ngồi bất động. Và ba tôi đang nói :

- Anh biết em từ lâu vẫn mong mỏi một cuộc sống gia đình đầm ấm hơn là trên chiếc xe lam, ngủ đình ngủ chợ. Nhưng anh không đủ khả năng để tạo dựng cho chúng ta một ngôi nhà. Anh cố gắng để dành tiền, mình về quê mua nhà để sẵn, chớ nghề này rồi cũng có lúc phải nghỉ. Khi già làm sao sống được.

Mẹ tôi trả lời giọng đầy nước mắt :

- Em đâu có muốn làm khổ anh. Nhưng khi nhìn thằng Hiệp đã lớn, mà không được đến trường học hành đàng hoàng em buồn lắm. Nhất là khi đau ốm, em lo. Chớ em theo anh đi đâu mà không được, sá gì nhà với cửa.

- Anh ráng lo cho nó ăn học với người ta, nhưng ngặt…

Ba tôi thở dài :

- Ngặt là cuộc sống tụi mình trôi nổi quá thì làm sao định cư được.

- Kiếp tằm thì phải nhả tơ. Anh đừng lo cho em.

Ba tôi nắm lấy tay má tôi, người nói thật khẽ. Tôi phải nhỏm dậy mới nghe rõ. Tôi biết ngồi nghe lén là xấu lắm. Nhưng tôi nôn nao sợ ba tôi quyết định bắt ở một chỗ thì… Tôi phải đến lớp học. Tôi phải ngồi hàng giờ trong ngôi nhà, im lặng nghe ông giáo giảng bài với cái roi mây nhịp nhịp trên tay sẵn sàng quật vào mông những đứa lắm chuyện, lười biếng. Tôi đâu còn được thả rểu qua những cánh đồng mênh mông như bây giờ. Tôi đâu còn được nghe tiếng hát, tiếng đàn, tiếng la, tiếng cười, bầu không khí rộn rịp của mỗi đêm hát. Ối thôi ! Tôi không chịu được đâu.

- Là chủ gia đình anh phải lo chu tất mọi việc chớ. Để anh liệu.

- Thôi, em biết mỗi lần anh lo liệu ra làm sao rồi... Anh đâu có ở nhà được. Ở đâu năm bảy ngày là ngứa ngáy tay chân, thấy tù túng liền.

Mẹ tôi nói đúng quá. Và ba tôi không nói gì nữa. Người chỉ thở dài. Cả hai cùng im lặng. Lúc đó, tôi ngồi dậy, rón rén lại gần ba mẹ, choàng tay trên lưng hai người nói :

- Con cũng không thích ở một chỗ để đi học đâu. Ba dạy con nghen ba. Con học với ba thôi. Mình học trên xe lam ba nghe.

Ba mẹ tôi giật mình quay lại, mẹ tôi ngẩn người một giây rồi ôm lấy tôi, mắng yêu :

- Thằng này rồi cũng giống ba nó như khuôn. Cái máu giang hồ không hết được.

Ba tôi cười xòa, đưa tay vuốt tóc tôi. Từ đó, tôi không còn nghe má tôi nói chuyện với ba tôi về vấn đề định cư một lần nào nữa. Cuộc sống của chúng tôi cứ thế tiếp tục. Khi thì vui, khi thì buồn, khi gặp lo, khi sung sướng. Nhưng đâu phải dòng đời khi nào cũng xuôi chèo mát mái như lòng mọi người đều mong ước. Chiến tranh càng ngày càng lan rộng. Nhiều thôn xóm nhỏ bé, heo hút đã trở nên vắng vẻ hoàn toàn. Từ nơi này sang nơi khác, chúng tôi đôi khi gặp phải những quang cảnh hoang tàn đổ nát. Chiến tranh đã viếng nơi này trước khi chúng tôi đặt chân đến. Những người dân sống sót lặng lẽ âm thầm. Đâu còn ai đủ sức để nghe chúng tôi ca hát. Hơn thế nữa, đến đêm không còn ai dám ra khỏi nhà. Chúng tôi đành kéo màn vào lúc xế chiều. Lũ trẻ nhỏ cũng biến đâu mất. Tôi không còn được nhìn thấy những gương mặt say mê, những đôi mắt khâm phục kéo hở bức màn chiếu che buồng hóa trang. Cũng vì vậy, cuộc sống vật chất của đoàn hát chúng tôi vô cùng thiếu thốn. Chúng tôi chịu đựng bao cực khổ. Nhiều ngày chúng tôi nhịn cả cháo lót lòng buổi sáng. Đôi khi nhịn cả cơm tối để lấy tiền mua xăng chạy xe. Những lít xăng bán lén lút của những người chợ đen len lỏi được cả những vùng không an ninh lắm. Vào thời gian này, chúng tôi không thể nào quên được những giây phút hồi hộp, bấp bênh và có lần xem ra nhục nhã nữa. Vì không kiếm đủ tiền để mua lương thực nên ba tôi và hai bác Tư, bác Bảy thường tổ chức những buổi câu cá, tát đìa ở những nơi vắng, hoặc ruộng bỏ. Tuy nhiên, đâu phải nơi nào chúng tôi cũng kiếm được thực phẩm tươi một cách dễ dàng. Đôi lần ba tôi đã lợi dụng buổi trưa vắng người, thắt những dây thòng lọng thả nằm trên mặt đất. Một nhúm gạo, hoặc ngô ở giữa. Khoảng một giờ, đôi khi nửa tiếng sau, chúng tôi đã đánh được mấy con gà hoặc mấy con vịt đi lạc.

Công việc giật chân gà, chân vịt là một điều thích thú đối với cái tuổi ham chơi của tôi. Do đó, không bao lâu tôi cũng tinh khôn và giăng bẫy tài tình. Tôi biết thắt một cái nút thế nào để dễ giật. Tôi rành những nơi, những bụi nào kín đáo và dễ ngụy trang cho sợi dây lộ liễu làm các con vật ngon lành kia sợ hãi. Vì những cách sinh sống như thế tôi trở nên một đứa trẻ nhanh nhẹn, tinh ranh, đáo để hơn những đứa cùng tuổi. Những công việc trên lại hấp dẫn tính ham hoạt động của tôi. Tôi xem tất cả những gì tôi làm đều thông thường, không có gì đáng trách, đáng suy nghĩ. Tôi còn nhớ rõ, những lần dừng chân ở các vùng tương đối trù phú, ba tôi thường tổ chức những buổi "đi chợ đêm", đó là cái tên ba tôi đặt ra mỗi lần kêu tôi hoặc bác Tư, bác Bảy đi theo.

Chúng tôi bắt đầu những buổi đi chợ đêm khi trời đã khuya, mọi nơi im vắng hoàn toàn. Làng xóm đã ngủ hết. Thường chúng tôi đi từng đợt hai người. Một người đào xới và một người mang giỏ. Chúng tôi vượt qua hàng rào của một khu vườn mà ba tôi đã để ý đến vào lúc ban ngày. Phần lớn đều là những vườn trồng khoai lang, củ đậu, hay bắp cải. Sau khi vượt hàng rào, chúng tôi bò sát đất. Ba tôi bò trước, tôi bò sau. Trườn mình giữa đám cây lá xum xuê. Ba tôi lắng im một phút để nghe ngóng, rồi mới bắt đầu đào xới. Với những bắp cải, ba tôi không lấy nguyên mà chỉ tỉa mỗi bắp một ít. Cải ta cũng vậy. Su trái thì chỉ hái những trái vừa chín và hái đủ ăn một hai ngày thôi. Riêng kỹ thuật đào khoai hoặc củ đậu của ba tôi làm tôi phục nhất. Một nhát dao thọc sâu vào lườn đất cát, lúc rút ra, ba tôi đã lấy nguyên một cụm khoai mà những dây khoai phía trên vẫn xanh nguyên. Tôi theo dõi hành động của ba tôi, muốn bắt chước, nhưng bao giờ ba tôi cũng không cho phép tôi xía vào. Vì vậy, trong lúc đó tôi chỉ làm mỗi một chuyện là báo động cho ba tôi biết bao tải đã đầy và quay lưng bò nhanh ra khỏi vườn.

Thật tình, ba tôi không được vui lắm sau mỗi lần đi chợ đêm. Người chỉ cười được một chút khi thấy tôi sì sụp ngốn ngấu những món ăn ngon lành, hay những lít xăng mua từ số tiền kiếm được do việc bán bớt những đồ lấy được. Tôi không thắc mắc nhiều. Mặc dù biết rằng, những đồ ba tôi lấy không phải của gia đình tôi. Và nhất là những chuyện đi chợ đêm của bác Tư Tình hay bác Bảy Viễn thường bị ba tôi trách móc là đã lạm dụng quá nhiều. Như vậy đi chợ đêm chưa chắc là điều tốt. Nhưng tốt hay xấu tôi đâu cần biết tới. Chỉ biết sau những buổi đi chợ đêm, cả đoàn hát được ăn ngon hai ba ngày liên tiếp. Và tôi thích đi chợ đêm hoài để mãi mãi được ăn ngon.

*

* *

Những con đường tráng nhựa rộng lớn khác biệt con đường đất gồ ghề, lồi lõm. Những dãy nhà quét vôi trắng xóa, khang trang. Có cái cao hai ba tầng như hình vẽ trong sách. Những chiếc xe gắn máy chạy nhanh. Những đứa trẻ quần áo chỉnh tề, sang trọng. Thị tứ tấp nập người mua bán. Trừ những lều chợ cũng bằng phên tre là quen thuộc, còn tất tất đều lạ mắt, rầm rộ. Những cánh đồng lúa xanh đã khuất bóng ở dãy nhà san sát đầu kia. Mặt trời buổi chiều đã khuất đâu đó. Ánh nắng rải trên mặt, trên nóc ngôi nhà lầu cao màu vàng nhợt nhạt.

Tôi như ngây ngây trước quang cảnh lạ mắt đó. Chiếc xe lam cũ kỹ của chúng tôi trông nghèo nàn già cỗi cạnh những chiếc xe lam khác đậu ngang dọc ở bên chợ. Nước sơn đã tróc, vài chỗ sét rỉ, móp mép. Đất đỏ, bùn đen bết bát trên thành xe, nhất là trên vành bánh xe càng trông càng bẩn. Bảng hiệu Hưng Liên mà ba tôi kẻ bằng nước sơn màu đỏ đã phai màu, đứng gần mới đọc được. Còn những chữ nhỏ hơn để tên các đào kép chính trong đoàn ca kịch Hưng Liên đã phai mất từ lúc nào. Mẹ tôi đã rảo vào trong chợ để tiêu nốt số tiền còn lại ít ỏi cho bữa cơm tối. Ba tôi dặn bác Tư và bác Bảy về những việc phải làm đêm nay. Tôi rỗi rãi nhất, xuống xe, đi loanh quanh ngắm chợ. Vài đứa bé ăn mặc lam lũ, vai mang thùng lớn lởn vởn quanh xe của chúng tôi nhìn ngắm với vẻ ngạc nhiên.

- Hiệp, đừng có đi đâu xa nghe, mẹ mìn bắt cóc đó.

- Dạ.

Đây là câu dặn dò đầu tiên của ba tôi với tôi về những bàn chân thích chạy biến của tôi. Ở cái chỗ đông người, ba tôi cẩn thận là phải. Chúng tôi đã rời làng xã để ra quận. Ba tôi hy vọng là dân chúng bình dân ở đây sẽ có tiền và có đủ tinh thần để nghe hát. Ít ra, chúng tôi cũng kiếm được cơm cháu sống qua ngày. Chớ ở trong các xã xa, ba tôi chịu. Buổi tối, đâu còn ai dám ra đường, hát xướng cũng không ai thèm xem. Chưa bao giờ chúng tôi dám ra những nơi đông đảo, thị tứ để phô trương đoàn hát của mình, một nhóm người hát dạo thì đúng hơn. Bác Tư đã rời ba tôi để lên xe lục kiếm một vật gì đó. Tôi lò dò đến gần hỏi bác :

- Bác Tư à, tối nay mình hát ở đâu há.

- Ở trong kia.

- Trong kia là ở đâu chớ bác nói vậy ai mà hiểu được.

- Chút nữa rồi biết. Con nít đừng có lộn xộn, để người lớn bàn chuyện.

Bác Tư đã lấy được cuốn tuồng hát. Bác bỏ tôi đứng bực tức vì óc tò mò chưa được thỏa mãn.

Cho đến lúc má tôi từ chợ đi ra thì cái nhóm ba người ba tôi, bác Tư, bác Bảy mới chấm dứt "cuộc họp". Nhưng cũng không để trễ một giây phút nào, ba tôi ra hiệu cho mọi người lên xe hết. Mẹ tôi trao cho tôi một trái chuối chiên nóng hổi. Mải ăn ngon, khi nhìn lên thì ngạc nhiên xiết bao, xe của chúng tôi đã chạy ra khoảng đồng trống. Hai bên gió mát rượi. Và đằng mãi xa, mặt trời đỏ như một cái mâm đồng chói lọi. Tôi hỏi, ngạc nhiên :

- Mình vô xã lại hả mẹ ?

Bác Tư trả lời :

- Vô xã làm cái gì ở trỏng ?

- Sao mình không hát ở chợ ?

Bác Tư cười khẩy :

- Ma nó thèm coi tao với ba mầy hát cải lương. Ở đó họ coi Bạch Tuyết, Hùng Cường, Phượng Liên, Thanh Nga, chớ coi gì Tư Tình, Bảy Viễn, Thành Hưng, Kim Liên.

Mẹ tôi làm thinh thở dài. Bác Tư cũng im luôn. Tôi cũng không dám hỏi trước vẻ mặt khép kín của mọi người. Ba tôi rẽ xe theo một con lộ nhỏ men hai bờ ruộng thấp. Những lũy tre tàng cây xanh um đàng trước mặt. Lúa xanh rờn uốn éo trong gió chiều. Mùi lúa thơm thơm quen thuộc. Một vài ngôi nhà sạch sẽ khang trang ở đầu xã. Rồi những dãy nhà kế tiếp nhau mà không thưa thớt. Nhìn hàng lô con nít rong chơi hai bên đường, mẹ tôi chép miệng :

- Cứ nội cái tụi loi choi này coi cũng được bộn bạc.

- Xã này chắc làm ăn được.

Ba tôi nói vọng về phía sau :

- Xã nào gần quận cũng giàu có lây. Để kiếm chỗ đất trống. Thằng Hiệp đâu, lấy cái trống vỗ vỗ để người ta chú ý.

Mẹ tôi vội vã lôi chiếc trống nhỏ ra. Tôi lấy hai cái que bắt đầu vỗ thùng thùng. Trong khi ba tôi cho xe đi thật chậm, những người đứng trước cửa nhà lạ lùng nhìn. Một đám học trò, tay còn xách cặp la lên :

- Đoàn cải lương tụi bây ơi.

Nhiều đứa trẻ đang chơi ở trong sân, nghe la, vội chạy ra nhìn một thoáng. Một đứa chạy theo reo inh ỏi, hai đứa chạy theo rồi một lũ con nít nhao nhao chạy theo. Tiếng trống của đoàn càng lúc càng giòn. Một đứa trẻ, vai tòn ten cái cặp sách bám được vào thành sau xe đang cố đặt chân lên tấm ván hờ nhô ra đằng cuối. Mẹ tôi la lên :

- Đừng chạy theo xe, xe cán giập ruột đó.

Nhưng đứa trẻ không nghe, miệng vẫn cười toe toét. Nó đã đu được cả hai chân. Và đang thả một tay vẫy vẫy, tụi trẻ con chạy theo. Một vài đứa khác muốn bắt chước. Ba tôi cho xe chạy nhanh hơn để vượt tụi nhỏ. Chúng vừa chạy vừa la. Riêng tôi lòng phấn khởi vui vui, đập trống liên hồi. Một đám đất trống, bãi cỏ tươi xanh nằm cạnh miếng ruộng tiếp giáp những đám ruộng khác. Ba tôi cho xe vòng một vòng rộng để kiếm chỗ tốt. Xe vừa đậu lại, tụi trẻ con cũng theo kịp. Chúng vòng quanh chiếc xe, tò mò nhìn chúng tôi, ngắm nghía những rương đựng đồ tuồng, phấn son, những tấm phông đơn sơ bạc phếch mắc trên mui xe. Vài đứa lẩm nhẩm đánh vần, cố đọc cho ra những nét chữ mờ ở hông xe.

- Đoàn Hưng Liên tụi bây ơi.

Một đứa nhòm vào xe hỏi tôi :

- Có Thành Được, Út Bạch Lan hông hả nhỏ ? Mầy đóng vai nào ?

Bác Bảy xua xua tụi nhỏ để lấy chỗ bước xuống xe.

- Đứng xa xa ra mấy em, để làm sân khấu tối coi.

Tôi bước xuống xe, phụ bác Bẩy vác mấy cái rương nặng chịch xuống xe. Đứa nhỏ lúc nãy bu cứng vào thành xe vứt cặp khênh hộ. Không thấy bác Bảy nói gì, vài đứa khác cũng bắt chước vứt cặp chạy lại.

Ba tôi khênh nốt mấy tấm phông vải xuống, vừa thở vừa nói với tụi nhỏ :

- Mấy cháu về nhà ăn cơm cho sớm rồi bảy giờ thưa với ba má lại đây xem cải lương. Mấy chú diễn tuồng "Nợ nước thù nhà". Hay lắm. Nghe !

Tụi nhỏ chộn rộn một phút. Có đứa bỏ về, có đứa đứng lại. Một đứa chỉ vào tôi hỏi :

- Chú, chú, anh này ảnh có ca cải lương hông chú ?

Mẹ tôi cười xòa :

- Ừa, chút nữa coi thì biết. Về ăn cơm sớm đi. Nhớ rủ bạn bè tới coi nghe.

Tụi nhỏ bỏ chạy về nhà. Một lát sau, bãi cỏ trống chỉ còn lại chúng tôi. Bác Tư nói :

- Chèn ơi, không đình, hát trống không vậy há ?

Ba tôi cười :

- Hát đây rồi mình thu tiền ai đứng coi, có nhiều lấy nhiều, có ít lấy ít. Nhưng, cái điệu nầy, ngó bộ mình được bộn bạc đây. Đỡ khổ.

Tôi nói với :

- Có tiền, mai ba cho con tô hủ tiếu nghe ba.

Ba tôi gật đầu :

- Được nhiều tiền, mai mua con gà cúng tổ.

Vài ba người làm ruộng trở về tò mò đưa mắt nhìn chúng tôi.

Gặp ai ba tôi cũng mời đến xem diễn tuồng. Gặp vài người vui tính ba tôi còn vời lại nói chuyện trong lúc bác Tư, bác Bảy dựng mấy cây cột treo mấy tấm phông. Chúng tôi dựng sân khấu trong sự thiếu thốn mọi bề. Nhưng những gánh hát dạo như chúng tôi phải biết biến ứng tùy theo hoàn cảnh. Gặp phải đình làng hoặc phòng khánh tiết của xã, chúng tôi cũng cực nhọc như giăng những phông màn ở giữa đồng trống. Cái xe được dùng làm hậu trường sân khấu. Ba cái cột đóng ba góc, cái xe trở thành cái cột thứ tư nằm về phía đầu gió. Những sợi dây vắt ngang chắc chắn treo tấm màn vải nu đã vá nhiều chỗ. Mấy cái phông sơ sài dựng được nhờ những nhánh chĩa. Chiếc đèn măng sông được bơm sáng treo lửng lơ. Vậy là xong. Bác Bảy thử lại dây đờn. Chúng tôi bắt đầu sửa soạn hóa trang. Hôm nay diễn tuồng xã hội nên hóa trang không tốn công và cực khổ nhiều. Tôi mặc chiếc áo cánh nâu, cái quần hai màu sửa soạn để đóng vai người con của chinh phụ. Tôi lóng ngóng qua lại chờ đám khán cả đầu tiên đến. Một cô bé bế em, tay kia bưng chén cơm vừa đút vừa dỗ là vị khán giả đến sớm nhất. Khi vầng trăng lưỡi liềm đến ngang đỉnh đầu thì trước sân khấu đã rộn rịp trẻ nhỏ. Chúng chạy đùa la hét giỡn hớt. Tôi có phận sự giữ không cho chúng lên sân khấu và gõ vào thành xe. Vài đứa nhìn nét mặt trát đầy son phấn của tôi với vẻ khâm phục và ao ước. Trong thoáng chốc, thấy mình lớn lên, hãnh diện.

Vài ba người lớn đã lục tục kéo đến. Đầu tiên là các bà già, rồi mới đến đàn ông, những người ở quanh xóm gần nơi chúng tôi dựng sân khấu. Họ ăn trầu, nói chuyện om sòm. Mẹ tôi đã hóa trang xong. Bà vòng ra đứng cạnh tôi nhìn xung quanh, lẩm bẩm một mình.

- Đông quá. Liệu cũng được bạc ngàn đấy. Mỗi người chừng bốn năm chục, trẻ con mười, mười lăm đồng.