Đấu Trường Sinh Tử - Chương 07 - Phần 2

Lợi thế nho nhỏ của tôi trước khi vào Trung tâm Huấn luyện, màn xuất hiện bốc lửa vào tối qua, có vẻ đã mất đi khi trực tiếp gặp những đấu thủ của mình. Chúng ghen tị với hai đứa tôi không phải vì bản thân chúng tôi có gì thú vị, mà bởi những gì các nhà tạo mẫu đã làm. Giờ đây tôi chỉ thấy trong mắt bọn Đấu thủ Nhà nghề ánh lên sự coi thường. Mỗi đứa phải nặng hơn tôi từ hai mươi đến bốn mươi cân. Chúng tỏ ra ngạo mạn và hiếu chiến. Khi Atala nói xong, bọn chúng đến thẳng những thứ vũ khí trông đáng sợ nhất trong phòng tập và sử dụng chúng một cách dễ dàng.

Khi tôi đang nghĩ mình thật may mắn vì là một tay chạy có hạng thì Peeta huých vào tay làm tôi giật mình. Cậu đang ở bên cạnh tôi như mệnh lệnh của Haymitch. Trông cậu khá điềm tĩnh. “Cậu muốn bắt đầu từ đâu?”

Tôi nhìn bọn Nhà nghề đang phô diễn; rõ ràng chúng muốn cả sàn tập khiếp sợ. Rồi tôi nhìn những đứa khác, những đứa thiếu ăn, thiếu khả năng, đang run rẩy tập bài học đầu tiên của chúng với con dao hay cái rìu.

“Chúng ta tập thắt nút thử xem,” tôi nói.

“Ở ngay đây thôi,” Peeta nói. Chúng tôi đi đến một lớp vắng tanh, người huấn luyện tỏ vẻ hài lòng khi có người đến học. Có vẻ lớp học thắt nút không phải là điểm nóng cho Đấu trường. Khi thấy tôi biết chút ít về đặt bẫy, ông ta chỉ cho chúng tôi một cách đặt bẫy đơn giản nhưng hiệu nghiệm khiến đối thủ bị treo một chân lủng lẳng trên cây. Chúng tôi tập trung kỹ năng đó trong một giờ cho đến khi cả hai đều thành thạo. Rồi bọn tôi sang lớp học ngụy trang. Peeta tỏ ra thực sự thích thú với nơi này. Cậu trét một mớ những bùn, đất sét và ruột trái dâu lên khắp làn da nhợt nhạt của mình, cài thêm những dây nho và lá cây để ngụy trang. Người đứng lớp ngụy trang chỉ dẫn chúng tôi một cách không thể nhiệt tình hơn.

“Tớ học từ cách làm bánh,” Peeta thú nhận.

“Bánh ư?” tôi hỏi. Tôi đang để tâm vào một thằng Quận 2 vừa phóng một ngọn lao xuyên qua tâm hình nộm từ năm mươi mét. “Bánh nào cơ?”

“Ở nhà. Những chiếc bánh đông lạnh ấy, cho tiệm bánh mì,” cậu nói.

Peeta muốn nói đến những chiếc bánh được bày bên cửa sổ. Những chiếc bánh thơm ngon được trang trí hoa hòe và hình thù đẹp mắt bằng kem. Người ta mua chúng làm quà sinh nhật và mừng năm mới. Lúc ở quảng trường, Prim luôn kéo tôi lại để cùng trầm trồ nhìn chúng, mặc dù hai chị em chưa bao giờ có đủ tiền mua. Tôi khó mà không nghe theo con bé, bởi chẳng mấy khi mà tìm thấy điều gì đẹp đẽ ở Quận 12 này.

Tôi nhìn kỹ hơn vào hình thù trên cánh tay Peeta. Những vệt sáng tối đan xen giống như ánh sáng đang rọi qua những kẽ lá rừng. Tôi tự hỏi làm sao cậu lại biết làm vậy, vì tôi cứ ngỡ Peeta chưa bao giờ thoát khỏi vòng kèm cặp của cha mẹ. Chỉ cần nhìn cây táo già xơ xác sau vườn nhà là biết được điều đó ư? Dường như toàn bộ những điều ấy - kỹ năng của cậu ấy, những chiếc bánh đắt đỏ, lời khen ngợi từ chuyên gia hóa trang - đang làm tôi khó chịu.

“Khá đấy. Sao cậu không thử làm đông lạnh ai đó đến chết,” tôi nói.

“Đừng chủ quan. Cậu sẽ không lường trước điều gì ở Đấu trường đâu. Giả sử người đó là một chiếc bánh bự tổ chảng…” Peeta bắt đầu cù nhây.

“Chúng ta đi tiếp thôi,” tôi ngắt lời.

Và ba ngày tiếp theo trôi qua khi Peeta và tôi lặng lẽ đi từ lớp này đến lớp học khác. Chúng tôi nhặt nhạnh được vài kỹ năng đáng giá, từ đánh lửa đến phóng dao và làm nơi ẩn náu. Mặc dù Haymitch yêu cầu chúng tôi không được thể hiện mình, Peeta vẫn nổi trội trong các bài đối kháng, còn tôi vượt qua trong nháy mắt bài kiểm tra về những loại cây cỏ ăn được. Dù vậy, chúng tôi tránh vào khu vực bắn cung và nâng tạ, để dành chúng trong buổi gặp riêng.

Ngay ngày đầu tiên Ban Tổ chức đã có mặt từ sớm. Khoảng hai mươi người cả đàn ông và đàn bà mặc áo choàng màu tím than. Họ ngồi trên một bệ cao xung quanh nhà tập luyện, thỉnh thoảng qua lại quan sát chúng tôi, hí hoáy viết những ghi chú, có lúc thì ngồi ăn trên một bàn tiệc dài tít tắp được phục vụ riêng, không để ý đến số đông chúng tôi. Nhưng họ có để mắt đến hai đấu thủ Quận 12. Thỉnh thoảng, tôi bắt gặp ai đó dán mắt vào mình. Họ cũng hỏi ý kiến của những huấn luyện viên trong lúc chúng tôi ăn. Khi trở lại nơi tập, chúng tôi thấy họ đang đứng cùng nhau.

Bữa sáng và bữa tối được phục vụ tại tầng của mỗi người, còn đến bữa trưa hai mươi bốn người chúng tôi sẽ đến một phòng ăn bên ngoài nhà tập luyện. Thức ăn được sắp vào những xe đẩy ở xung quanh phòng, ai tự phục vụ người nấy. Lũ Nhà nghề thường tụ tập huyên náo quanh một chiếc bàn, như thể muốn chứng tỏ sự vượt trội của mình, như thể muốn nói chúng tôi không sợ một ai và không thèm để mắt tới những người còn lại. Phần nhiều những vật tế khác ngồi một mình như cừu lạc. Không ai nói lời nào với chúng tôi, Peeta và tôi ngồi ăn cùng nhau, và từ khi Haymitch dặn chúng tôi phải làm thế, hai đứa cố gắng nói chuyện thân mật suốt bữa ăn.

Tìm được đề tài để nói cũng không dễ. Nói chuyện về gia đình thì buồn lắm. Nói về hiện tại cũng không dễ chịu gì. Một hôm, Peeta đổ rổ bánh mì và chỉ cho tôi thấy người ta đã cẩn thận thu gom từng loại bánh mì của từng quận, cùng với thứ bánh mì thô của Capitol như thế nào. Ổ bánh hình con cá có màu xanh rong biển là của Quận 4. Ổ bánh hình trăng lưỡi liềm lấm tấm hạt là của Quận 11. Dù được làm từ cùng một nguyên liệu, nó trông vẫn thu hút hơn nhiều so với những chiếc bích quy thô kệch vẫn thường thấy ở quận chúng tôi.

“Và cậu hiểu rồi đấy,” Peeta nói, xúc bánh mì lại vào rổ.

“Cậu rõ là biết nhiều thứ,” tôi nói.

“Chỉ về bánh mì thôi,” cậu nói. “OK, bây giờ hãy cười như thể tớ vừa nói chuyện gì vui nhộn nhé.”

Chúng tôi cùng cười thật tự nhiên và bỏ qua những cái nhìn săm soi từ khắp phòng.

“Được rồi, giờ thì cậu nói còn tớ sẽ cười khoái chí,” Peeta nói.

Việc tỏ ra thân thiện theo lời Haymitch làm cả hai chúng tôi đều mệt mỏi. Kể từ lúc tôi đóng sập cánh cửa, đã có một bức tường lạnh lẽo ngăn cách cả hai. Có điều, chúng tôi phải làm theo lời căn dặn.

“Tớ đã kể cho cậu nghe về cái lần bị gấu rượt chưa nhỉ?” tôi hỏi.

“Chưa, nhưng nghe hấp dẫn đấy,” Peeta nói.

Tôi thử dùng nét mặt diễn tả lại tình huống khi ấy, một câu chuyện có thật. Lần ấy, tôi dại dột giành tổ ong với một con gấu đen. Peeta cũng cười và đặt câu hỏi rất tự nhiên. Cậu ấy giả bộ giỏi hơn tôi nhiều.

Vào ngày thứ hai, khi chúng tôi đang tập phóng lao, cậu thì thầm. “Tớ nghĩ là bọn mình có đuôi.”

Tôi phóng lao đi, cũng không cần phải ném quá xa dù thực sự tôi không tồi lắm về món này, và tôi thấy một cô gái nhỏ của Quận 11 đang đứng phía sau một chút nhìn bọn tôi. Con bé khoảng mười hai tuổi, cái tầm tuổi làm tôi nhớ đến Prim. Nhìn kỹ hơn thì nó giống mười tuổi hơn. Con bé có đôi mắt sáng, đen láy và làn da nâu mỏng như vải sa tanh. Nó đứng nhón chân, hai cánh tay hơi dang ra hai bên, như thể sẵn sàng bay vù đi ngay khi có một tiếng động nhỏ nhất. Tôi không thể không liên tưởng đến một con chim.

Tôi lấy một cây lao khác khi Peeta ném. “Tớ nghĩ tên con bé là Rue[14],” cậu nói khẽ.

Tôi bặm môi. Rue là tên một loài hoa nhỏ màu vàng mọc ở Đồng cỏ. Rue. Primrose[15]. Chẳng đứa nào qua được tầm ba mươi ký lô cả.

“Chúng ta làm gì với con bé đây?” Tôi hỏi, có vẻ hơn tàn nhẫn hơn những gì định nói.

“Không làm gì cả,” Peeta nói. “Cứ nói chuyện thôi.”

Bây giờ khi đã thấy con bé, tôi khó có thể không chú ý tới nó. Con bé lẻn đi và nhập hội với chúng tôi ở một lớp khác. Giống như tôi, nó rành rẽ về các loại cây cỏ, leo trèo nhanh nhẹn và ngắm rất tốt. Nó bắn trúng tất cả mục tiêu bằng một chiếc ná cao su. Nhưng liệu ná cao su có thể chống lại một thằng con trai nặng cả trăm ký với thanh kiếm trên tay?

Mỗi khi trở về tầng 12, chúng tôi lại bị Haymitch và Effie tra hỏi suốt buổi sáng và bữa tối về từng khắc trong ngày. Chúng tôi đã làm gì, bị ai quan sát và những đấu thủ khác thể hiện ra sao. Cinna và Portia không có ở đó, cũng có nghĩa là chẳng cón có người giữ hòa khí trong bữa ăn. Tuy nhiên, Haymitch và Effie không còn cãi nhau nữa. Thay vào đó họ có vẻ đồng thuận và quyết đưa chúng tôi vào khuôn khổ. Một mớ những căn dặn lê thê về những gì chúng tôi nên và không nên làm trong khi luyện tập. Peeta tỏ ra kiên nhẫn, nhưng tôi bắt đầu thấy bội thực và cáu tiết.

Khi chúng tôi cuối cùng cũng được giải thoát về phòng ngủ trong buổi tối thứ hai, Peeta lầm bầm. “Ai đó phải cho Haymitch uống gì đấy.”

Tôi khịt mũi nửa như muốn cười, nửa như muốn châm biếm. Rồi tôi chợt nhận ra. Thật sự tôi đã quá mệt mỏi trong việc xác định khi nào chúng tôi buộc phải là bạn và khi nào không. Ít nhất là khi vào Đấu trường, tôi biết chúng tôi là gì của nhau. “Thôi. Không giả bộ nữa khi không có ai ở xung quanh.”

“Được thôi, Katniss,” cậu uể oải. Sau đó, chúng tôi chỉ nói chuyện khi ở trước mặt mọi người.

Vào ngày luyện tập thứ ba, họ bắt đầu gọi chúng tôi sau bữa trưa để đến buổi gặp riêng với Ban Tổ chức. Từng quận một, nam đi trước rồi đến nữ. Như thường lệ, Quận 12 được xếp cuối cùng. Chúng tôi đứng ngồi không yên trong phòng ăn, chưa rõ phải đi đâu. Không một ai ra đi rồi trở lại. Khi căn phòng trống trải, áp lực phải tỏ ra thân thiện vơi đi. Vào lúc họ gọi Rue, trong phòng chỉ còn lại hai chúng tôi. Cả hai ngồi trong im lặng cho đến lúc tới lượt Peeta. Cậu đứng dậy.

“Hãy nhớ lời Haymitch, phải ném tạ dứt khoát.” Tôi bật ra trong vô thức.

“Cảm ơn, tớ sẽ làm thế,” cậu nói. “Cậu cũng… bắn cho thẳng vào nhé.”

Tôi gật đầu. Không hiểu sao tôi không nói gì cả. Mặc dù nếu có thua, tôi vẫn mong Peeta là người chiến thắng hơn những kẻ khác. Như thế sẽ tốt hơn cho quận chúng tôi, cho mẹ tôi và Prim.

Sau khoảng mười lăm phút, họ gọi tên tôi. Tôi vuốt lại tóc, ưỡn thẳng vai rồi bước vào phòng tập. Ngay lập tức, tôi biết là mình đã gặp bất lợi. Ban Tổ chức đã ở đó quá lâu. Họ ngồi suốt trong các màn thể hiện của hai mươi ba người khác. Hầu hết đã uống khá nhiều vang. Họ chỉ muốn về nhà.

Tôi không thể làm gì khác ngoài việc tiếp tục như kế hoạch. Tôi bước đến khu bắn cung. Chà, những cây cung! Tôi đã ngứa ngáy muốn cầm chúng trên tay từ mấy hôm nay rồi! Có cây làm bằng gỗ, có cây làm bằng chất dẻo, kim loại hay những thứ vật liệu mà tôi không biết là gì. Những mũi tên gắn lông chim được vót thẳng băng. Tôi chọn lấy một cây, thử dây và khoác ống đựng tên lên vai. Khoảng ngắm bắn quá gần. Tâm bắn ở giữa hình nhân. Tôi bước ra chính giữa phòng tập và nhắm vào mục tiêu đầu tiên. Hình nộm này được dùng cho bài phóng dao. Ngay khi giương cung tôi đã nhận ra có điều gì không ổn. Dây cung căng hơn so với cây cung tôi dùng ở nhà. Mũi tên chắc hơn. Tôi bắn trật hình nộm chỉ vài xăng ti mét nên hơn mất tập trung so với ban đầu. Trong vài giây tôi cảm thấy xấu hổ, nhưng rồi tôi tập trung trở lại vào tâm bắn ở giữa hình nhân. Tôi bắn thêm vài lần nữa cho đến khi có được cảm giác với thứ vũ khí mới.

Quay lại giữa phòng tập, tôi lấy lại tư thế ban đầu và bắn xuyên tâm hình nộm. Rồi tôi bắn đứt sợi thừng đang treo bao cát đấm bốc, cái bao rớt bịch xuống sàn tung tóe. Không dừng lại, tôi khom vai, quỳ gối và bắn vào chiếc bóng đèn đang treo trong phòng tập. Một chùm tia sáng lóa ra từ bóng đèn.

Một cú bắn tuyệt vời. Tôi quay sang Ban Tổ chức. Một số gật gù tán thưởng, nhưng phần đông chú tâm vào con heo quay vừa được bày trên bàn tiệc.

Đột nhiên tôi cảm thấy cáu tiết, khi những người đang phán xét số phận mình không có lấy một chút lịch sự nào. Rằng tôi còn không bằng một con heo bị làm thịt. Ngực tôi đập thình thịch, và tôi cảm thấy mặt mình đỏ ửng lên. Không nghĩ ngợi, tôi lấy một mũi tên ra khỏi bao và bắn thẳng đến bàn của Ban Tổ chức. Tôi nghe thấy những tiếng hô cảnh báo và mọi người giật lùi lại. Mũi tên xiên thẳng vào quả táo trong miệng con heo và cắm nó vào bức tường cạnh đó. Mọi người nhìn tôi ngỡ ngàng.

“Cảm ơn sự xem xét của các ngài,” tôi nói. Rồi tôi hơi cúi người chào và bước thẳng về phía cửa ra, không cần chờ đến lúc bị tống cổ.