Venise và những cuộc tình Gondola - Phần 11 chương 4 - 5
Oxford của những tòa tháp trong mơ
Tôi đến Oxford vào một ngày đầu xuân, khi thành phố của những tòa tháp trong mơ đang rộ nở những sắc hoa rực rỡ và các ngôi trường cổ kính phủ cỏ xanh mượt mà. Từ nhà ga tôi khập khiễng kéo cái va-li đã… bay mất một bánh xe tìm đường về Guest House trên đường Iffley. Nhìn trên bản đồ con đường này không xa nhà ga, dường như chỉ đi vài ba bước là đến. Thế nhưng lò dò cả tiếng đồng hồ tôi mới lết nổi đến nhà. Chỉ kịp quăng hành lý vào góc phòng bé tí như dành cho búp bê, tôi hào hứng trở ngược ra trung tâm vì dọc đường đi bao nhiêu cảnh thần tiên đã hút mất hồn tôi rồi.
Tôi dừng bước bên cầu Magdelen bắc ngang dòng sông Cherwell thơ mộng. Hàng liễu rủ xanh xanh xinh đẹp hai bên sông bình yên. Những con vịt xám gọi bầy, đôi thiên nga rũ đôi cánh trắng và vươn chiếc cổ kiêu kỳ soi mình xuống dòng sông phẳng lặng. Một gia đình trẻ dắt con đi dạo trong khung cảnh nên thơ. Thế nhưng cũng trên sông Cherwell, vào một buổi trưa ấm áp trong vườn hoa của Magdelen’s College, tôi lại thấy không khí hoàn toàn sôi động. Đám sinh viên hồn nhiên thuê xuồng chèo mê mệt. Nhìn họ cật lực chèo chèo chống chống mà xuồng chẳng tiến được bao nhiêu, thậm chí còn xoay vòng vòng đến chóng mặt, tôi không nhịn được cười. Cách đó không xa, trên thảm cỏ xanh êm ái, những anh chàng sinh viên cơ bắp đang hào hứng chơi bóng đá, những ngọn tháp xung quanh dường như cũng hồi hộp mỗi khi bóng chui lọt lưới làm các cầu thủ nhà ta buột miệng “shit”. Thì ra sinh viên Oxford cũng biết… văng tục.
Đã đến Oxford bạn không thể bỏ quên trường Đại học vì đây là linh hồn của thành phố. Trường Oxford bao gồm đến ba mươi chín ngôi trường độc lập khác nhau gọi là “college”. Mỗi college trông cổ kính và đẹp cầu kỳ như những tòa lâu đài với những cánh cổng bằng gỗ được chạm khắc công phu và những ngọn tháp vươn cao quyền quý. Sinh viên và cả giáo sư chạy xe đạp luồn lách vào những con đường hẹp hay những con hẻm nhỏ lót đá di chuyển từ college này sang college kia. Kìa là một cô nàng có hàng tá sách dày cộp trên rổ xe, phía sau lưng lại đang đèo… một bé gái chừng ba tuổi. Hẳn cô đang làm luận án tiến sĩ, thời gian nghiên cứu sinh dài quá nên phải tranh thủ có con luôn?
Ở Oxford, bạn có thể đụng mặt các tiến sĩ tương lai khắp mọi nơi, ai cũng đang bận rộn với những ý tưởng của riêng mình. Có người đang gặm bánh mì, có người đang vác chiếc xe đạp xẹp bánh trên vai, có người lại đang lẩm nhẩm rì rầm gì đó trong miệng. Tôi đã lẻn vào một college trong giờ thì, thấy đám sinh viên ngồi trên hai cái bàn gỗ dài trong gian phòng đá cổ kính. Ngồi sát nhưng chẳng ai thèm liếc ngang liếc dọc “cọp dê” bài nhau. Nhìn không khí thi cử của người ta, tôi ước chi mình cũng… được làm sinh viên Oxford. Một anh bạn đồng nghiệp người Anh của tôi cho biết anh sinh trưởng ngay ở Oxford, bản thân học hành cũng “ghê gớm” lắm nhưng chịu thua không lọt được vào trường Đại học xếp hàng top ten uy tín nhất thế giới này. Giờ đã là tiến sĩ của trường khác nhưng anh vẫn chưa nguôi “hận”. Thế mới biết được làm sinh viên Oxford mới kiêu hãnh làm sao. Kiêu hãnh như những ngọn tháp vút lên của những college tồn tại từ thế kỷ thứ mười hai. Oxford là trường Đại học dạy bằng tiếng Anh cổ nhất thế giới, thế nhưng ẩn trong lớp bề ngoài phủ rêu phong thời gian ấy là một bộ máy giáo dục vận hành một cách cực kỳ hiện đại. Thật chưa ở đâu tôi thấy rõ sự giao thoa và hỗ trợ nhau tuyệt vời giữa xưa và nay, giữa quá khứ và hiện tại một cách mạnh mẽ và hiệu quả đến vậy.
Vì Oxford tuy cổ kính nhưng dân tình đa phần là sinh viên đến từ khắp nơi trên thế giới nên thành phố nhất định không thể già nua. Ngược lại, Oxford trẻ trung vô cùng với đầy đủ các câu lạc bộ giải trí sôi động, các trung tâm thể thao hiện đại, các cửa hàng thời trang phong phú, các quán ăn đủ mọi thể loại thật ngon miệng. Ở khu shopping trên phố Cornmarket, tôi tìm thấy đủ các cửa hàng nổi tiếng chẳng khác nào ở thủ đô phồn hoa Luân Đôn. Trong cửa hàng “Debenhams” trên phố George, tôi còn may mắn tậu được một bộ áo váy công sở đại hạ giá đến mức “gần như cho không” vì… kích cỡ nhỏ quá chẳng ai mặc vừa. Nhưng cũng tại “Debenhams” ở các thành phố khác, bộ váy áo đó không được bán với giá bèo như vậy dù cũng đang trong đợt giảm giá. Vì thế, khi đã chia tay Oxford, ngoài những college đẹp kiêu hãnh, những tháp chuông giáo đường bình yên, những cô cậu sinh viên đạp xe loanh quanh trong khu phố cổ ra, tôi nhớ nhất là… cửa hàng “Debenhams” của mình. Cuốn “Oxford thương yêu” ra đời như một nhu cầu được “níu giữ” chút thời gian ngắn ngủi tôi ở với thành phố đặc biệt này, và quả Oxford luôn mãi trong tim tôi.
Không học nổi ở Cambridge
Khi đến Anh, ngoài thủ đô Luân Đôn, hai thành phố Cambridge và Oxford là nơi được du khách tìm đến nhiều nhất. Được biết đến như các thành phố Đại học nói tiếng Anh cổ xưa nhất châu Âu. Và lẽ dĩ nhiên, đây cũng là một trong những nơi cổ kính nhất nước Anh. Nhiều người hỏi tôi Cambridge và Oxford nơi nào thú vị hơn. Dù đã viết cuốn truyện “Oxford thương yêu”, nhưng câu trả lời thật không quá đắn đo: Cambridge!
Giống như Oxford, Cambridge cũng có những ngôi trường colleges cổ kính trực thuộc Đại học Cambridge, cũng có những tòa tháp vươn cao quyền quí, cũng có những giáo đường mái vòm và những cánh cửa gỗ được chạm khắc uy nghi. Vậy điều gì làm Cambridge trở nên khác biệt và thú vị hơn?
Cambridge cách Luân Đôn về phía bắc khoảng 80km và được các thị trấn yên bình bao quanh. Vì thế, bản thân Cambridge cũng rất yên tĩnh, bình an và có lượng cây xanh phủ rợp rất trong lành.Cambridge còn có nhiều khoảng không dành cho công viên, các kênh đào thả những loại thủy cầm, các thảm cỏ xanh rì được cắt xén chăm chút. Ngoài ra, dòng sông Cam thanh mảnh uốn mình chảy lượn quanh các colleges chính là linh hồn giúp thành phố toát lên vẻ êm đềm. So với Oxford, Cambridge mềm mại, gần gũi và lãng mạn hơn rất nhiều.
Chúng tôi đi ngang bến thuyền, nơi các sinh viên đăng ký làm người chèo thuyền đưa du khách lững lờ dạo qua các colleges xinh đẹp như King’s College, Trinity’ College, Saint John’s College. Được biết những người chèo thuyền toàn là các nghiên cứu sinh, những tiến sĩ tương lai, các du học sinh xuất sắc, chúng tôi thấy ái ngại không dám xuống thuyền. Phần vì… cũng muốn tiết kiệm do giá cả bên Anh cực đắt, chúng tôi tự hài lòng khi đi bộ thong dong dọc theo dòng sông Cam. Ở Cambridge, sinh viên quốc tế chiếm đến 30% dân số nên bạn tha hồ bắt gặp những cô cậu trẻ măng tay ôm sách, tay cầm ổ bánh mì gặm vô tư. Các sinh viên châu Á khá đông, và thỉnh thoảng gặp vài người da màu. Điều này ở Oxford khá hiếm, có thể vì người gốc Á thích vẻ lãng mạn của Cambridge hơn chăng? Riêng tôi, nếu được chọn, tôi thích đến Oxford học tập hơn. Đơn giản vì Cambridge quá thơ mộng, thật quá mà tập trung dùi mài kinh sử được.
Người chủ Guest House nơi chúng tôi trọ rất biết cách làm vui lòng khách, ông nói cười cởi mở, chẳng có vẻ gì là “phớt tỉnh Ănglê”. Khi tình cờ xuống bếp, tôi thấy ông có một laptop xịn đang chạy chương trình gì đó rất “trí tuệ”. Ông cho hay mình là kỹ sư vi tính, làm việc tại nhà nên có thể giúp vợ trông coi Guest House. Căn bếp rất sạch, sáng bóng và có một trật tự sắp xếp cao. Chả trách căn nhà ông ở chỉ có một lầu, chiều dài 20 mét, chiều ngang 4 mét những được “quy hoạch” để có đến 6 phòng ngủ cho thuê, một phòng khách kiêm phòng ăn, bếp và chỗ sinh hoạt riêng tư cho gia đình. Chúng tôi rất thích ở Guest House vì so với khách sạn, giá không rẻ hơn nhưng không khí lại thân mật hơn, sạch sẽ và ở gần trung tâm thành phố. Các Guest House khi được post lên Internet đều được du lịch địa phương cấp phép nên tuy quy mô hộ gia đình, họ làm ăn rất chuyên nghiệp và uy tín. Những thành phố cổ nhờ vào lượng Guest House mà không phải xây thêm khách sạn to lớn làm mất cảnh quan mà vẫn có thể đón được một lượng du khách không nhỏ.
Ngày hôm sau, nghe theo lời khuyên của ông chủ nhà, chúng tôi quyết định… ngồi thuyền dạo dọc sông Cam. Những ngôi trường cổ xưa vươn mình vừa uy nghi vừa gần gũi. Những con ngỗng trắng và vịt xám được thả bơi trong một vùng lau sậy trong lành. Ngang qua chiếc Cầu Than Thở (Bridge of Sigh) chúng tôi nêu thắc mắc với người chèo thuyền: Vì sao các thành phố cổ ở châu Âu hay có dạng cầu này? Venise, Bercelone, Oxford, Cambridge… mỗi nơi có một Bride of Sigh khác nhau nhưng cũng chung một đặc điểm: chúng ta đừng đi bên trên mà nên đi phía dưới cầu để ngước mắt nhìn ngước lên mà than thở rằng: “Ôi chao là đẹp!”. Bridge of Sigh ở Oxford bắc ngang… một con phố nhỏ. Nhưng ở Cambridge, cầu được bắc ngang sông Cam đàng hoàng. Khi thuyền lững lờ nhẹ nhàng trôi qua, chúng tôi được khuyên hãy ước một điều. Đã ước thì một điều hay mười điều thì cũng thế, chẳng nên hà tiện. Vì thế tôi tha hồ ước, những điều ước lãng mạn như dòng sông Cam nhỏ xinh nhưng cũng rất vững chắc, như những ngôi trường sừng sững của Cambridge.
Nếu như thuyền chỉ dành để đãi khách du lịch (đãi nhưng phải trả tiền), thì xe đạp là phương tiện thông dụng cho dân Cambridge. Có đến 25% người dân của thành phố này đạp xe đến sở làm hoặc đi học hàng ngày. Đường phố ở đây nhỏ xinh, được đạp xe loanh quanh giữa những ngôi trường cổ kính, những vườn hoa, những thảm cỏ nhung mượt mà là một cái thú. Ngoài ra, thành phố còn ưu tiên quy hoạch đường dành riêng cho xe đạp để khuyến khích mọi người bảo vệ môi trường.
Tôi hiện đang ở Cambridge vào tháng tư, khi mùa xuân yêu kiều đang trải chiếc áo hoa xinh đẹp và nắng vàng đang lung linh gợi cảm. Vào mùa này ai không đạp xe thật là phí phạm nên có rất nhiều những nam thanh nữ tú và cả các ông giáo sư hói đầu đáng kính đang nhấn kèn xe “reng, reng” thong dong lướt xe đạp trên phố nhỏ. Xe đạp ở Cambridge có những chiếc thật buồn cười, bé tẹo và lùn tè như dành cho trẻ con nhưng lại đang được mấy anh chàng sinh viên cao ngồng đạp hăng hái. Xe đạp được dựng trong sân trường, khóa bên các hàng rào, cột vào các cột đèn như những tài sản không mấy giá trị. Nhưng đừng lầm, theo thống kê của sở cảnh sát, hàng năm vào thời điểm này, tức là vào lúc Cambridge đang đầu xuân, có cả trăm chiếc xe bị “thó” hoặc bị gỡ phụ tùng trơ trụi chỉ còn cái bánh xe bị xích lại. Ngoài ra dân sinh viên còn biết rõ nhiều xe đã bị “làm thịt” mà chủ nhân cũng chẳng buồn báo cảnh sát. Bất quá rình chiếc nào dễ “chôm” thì trả thù lại cho đỡ tức vậy. Trong những con hẻm giữa các colleges, chúng tôi thấy nhiều bảng hiệu sửa xe đạp, tân trang hoặc tháo ráp lại những chiếc xe mới. Và cũng như nhiều ngành nghề thời vụ khác ở Cambridge, các “thợ sửa xe đạp” này hoàn toàn là các thạc sĩ và tiến sĩ tương lai.
Đâu đó trong một cuốn sách người ta nói rằng Cambridge có nghĩa là thành phố của những chiếc cầu bắc ngang sông Cam. Và tôi cũng biết rằng Cambridge còn là thành phố của tri thức, của lãng mạn, của sự trong lành…
Birmingham không bảo thủ
Tôi nghe danh Birmingham đã lâu từ một người “đặc biệt” du học ở đây.
Birmingham là một trong những thành phố lớn nhất nước Anh và đây là cái nôi của cuộc Cách mạng công nghiệp với “nick name” như “Phân xưởng của thế giới” hay “Thành phố ngàn nghề”. Từ Birming-ham, các tuyến đường sắt, đường bộ túa ra các khu vực lân cận và là cầu nối cho nhiều thành phố xung quanh. Vì lẽ đó, Birmingham còn nổi tiếng với “Spaghetti junction”. Đây là nơi các cầu vượt được xây dựng thành từng tầng chồng chất lên nhau. Nhìn từ trên cao, những chiếc cầu vượt - xa lộ này đan xen một cách rối rắm, chẳng khác nào một đĩa mì Ý spaghetti.
Thành phố đa văn hóa
Và tôi đã cùng người “đặc biệt” của mình vượt qua “dĩa mì spaghetti” ấy để tiến vào thành phố Birmingham vào một ngày đầu xuân tuyệt đẹp. Với tôi đây là lần đầu, ấn tượng chưa có gì “kinh khủng” khi xe đò chạy “xăm xăm” vào thành phố. Nhưng với “đối tác” đang ngồi kế bên, đây là thời điểm khá xúc động, sau năm năm chia tay, anh đang quay về với những kỷ niệm thời du học với thành phố yêu dấu đã cưu mang trong lúc xa quê hương. Từng dãy phố, từng con đường, từng công trình kiến trúc được anh thì thầm gọi tên. Thật khó tin, sao anh lại có thể nhớ rõ sau bao năm cách biệt.
Công bằng mà nói, Birmingham… xấu quá! Đơn giản bởi đây là thành phố công nghiệp, chẳng thể so sánh với Oxford kiêu kỳ, Cambridge lãng mạn hay London phồn hoa. Nhưng cũng công bằng mà nói, Birmingham có một sức hút mãnh liệt từ sự sống động, năng nổ và tốc độ thay đổi rất nhanh. Thành phố mang dáng dấp của một môi trường đa quốc gia, đa chủng tộc và dĩ nhiên là đa văn hóa. Ngoài phố, tôi gặp rất nhiều người không-da-trắng, họ là người da đen (châu Phi), da tái tái (Bắc Phi), da có màu cà phê sữa (người gốc thổ dân trên các đảo Nam Thái Bình Dương, thuộc địa cũ của Anh), da ngăm ngăm (Ấn Độ, Indonesia) và đặc biệt là khá nhiều người da vàng. Những người gốc Á này cũng đến từ khắp nơi, không hoàn toàn là người Trung Quốc. Họ mỉm cười thân thiện với tôi như một lời chào từ những người cùng chủng tộc. Có vài người đứng bán quà rong và bong bóng đủ màu ở khu trung tâm. Họ chỉ đường cho tôi bằng tiếng Hoa, “xí xố xí xố” vô cùng nhiệt tình.
Dấu ấn “da vàng”
Tôi không có một thống kê nào về tỷ lệ người gốc nước ngoài sống ở Birmingham. Có thể người gốc Á chưa phải chiếm số đông, nhưng một điều chắc chắn là sức ảnh hưởng của cộng đồng này thật đáng kể. Quả vậy, những công trình mang dáng dấp Á châu khá dày đặc trong thành phố. Cổng chào của Birmingham có mái che theo lối kiến trúc Trung Hoa. Thật buồn cười cho một thành phố lớn của Anh. Những giao lộ lớn cũng có những công trình sơn màu đỏ, yểu điệu với những đường cong rặt chất Á Đông. Các chùa chiền cũng khá nhiều và đương nhiên là có dáng vẻ của một vùng đất xa xăm. Ngoài ra, các siêu thị bán đồ châu Á cũng được xây dựng theo kiến trúc Trung Hoa với những mái ngói vút cong, vòm cổng hình bán nguyệt và mọi thứ đều có màu đỏ tượng trưng cho may mắn. Ở một nhà ga trong thành phố, kiến trúc châu Á cũng hiện diện rõ rệt qua những chiếc cổng được trang trí như mái chùa. Xem ra, cộng đồng da vàng rất chịu khó hòa nhập vào cuộc sống ở Birmingham và muốn để lại dấu ấn của mình thông qua các công trình công cộng. Hẳn họ phải góp tiền hoặc tài trợ cho những công trình xã hội. Và dĩ nhiên, Birmingham cũng “welcome” điều này, thành phố dang tay rộng lòng đón nhận những tinh hoa từ các nền văn hóa khác đem lại, thật thân thiện và gần gũi.
Tất cả những dòng kênh đều chảy
Thật ra, Birmingham không xấu như tôi vội nhận xét. Khi ra trung tâm thành phố dạo chơi sáng chủ nhật, tôi ngỡ ngàng nhận ra Birmingham quá duyên dáng và độc đáo với hệ thống kênh đào vô cùng phong phú. Lẽ ra người ta nên đặt cho thành phố này biệt danh “Venise phương Bắc”. Tuy nhiên, “nick name” này đã được gán cho Amsterdam (Hà Lan) và Brugge (Bỉ) mất rồi. Lịch sử thành phố ghi nhận, từ những năm 1760, một hệ thống kênh rạch phức tạp đã được xây dựng trên một diện rộng, xuyên qua Birmingham và vùng “Black Country” kế đó. Hệ thống kênh rạch này đã giúp người dân vận chuyển hàng hóa. Họ mua nguyên phụ liệu thô về sản xuất và chở ra khắp nơi các sản phẩm hoàn thành. Vào những năm 1820, thành phố cho trùng tu và mở rộng thêm nhiều con kênh nữa. Và kinh ngạc làm sao, tôi được biết Birmingham có tổng chiều dài của các con kênh là 60km, hơn hẳn Venise của Ý (chỉ có 41km).
Ngày nay, hệ thống kênh rạch này khá đẹp mắt, tuy không lãng mạn như Venise hay điệu đàng như Amsterdam, các con kênh của Birming-ham cũng được chăm chút khá cẩn thận với những chiếc cầu duyên dáng bắc ngang, đàn thủy cầm thả rong dịu dàng và những chiếc thuyền con rong ruổi lại qua. Thành phố tận dụng hệ thống kênh rạch dày đặc cho việc đi lại của người dân thêm dễ dàng, họ có thể dùng thuyền như xe bus trên bộ để đi lại trong nội thành và như xe đò để đi ra các vùng phụ cận. Tất cả các con kênh đều được sử dụng và trân trọng như nhau. Tất cả những dòng kênh đều chảy…
Yêu văn nghệ và yêu Nữ hoàng
Chúng tôi may mắn đến Birmingham nhân dịp người dân cả nước đang có nhiều hoạt động mừng sinh nhật Nữ hoàng. Tại quảng trường trung tâm, từng nhóm các nghệ sĩ nghiệp dư quây quần múa hát vui nhộn. Tôi cũng hòa vào ngồi chung với hàng trăm khán giả, kế bên là một chiếc xe nôi có chú bé mập mạp nhún người theo tiếng nhạc. Thật lòng mà nói, trình độ biểu diễn của họ không có gì đặc sắc, nhưng lòng nhiệt tình và sự đam mê của những nghệ sĩ nghiệp dư này thể hiện thật rõ rệt. Họ mặc trang phục truyền thống, tập dượt công phu nhiều tháng trời, thậm chí còn phải kiêng ăn để có được vóc dáng thon thả. Đa phần họ đều ở độ tuổi về hưu, tóc điểm bạc nhưng dáng dấp vẫn cố hết sức giữ cho gọn gàng. Các ông cao dong dỏng, nhảy múa những điệu dân gian rất thong thả, khoan thai, ra chiều “gentleman” lắm. Các bà điệu đàng hơn, hay cười với khán giả và xúng xính trong những chiếc đầm phùng xòe. Nhóm các em thiếu nhi càng náo nhiệt, tuy trong lúc diễn các em hay lúng túng vì quên bài, nhưng sự hồn nhiên đã làm các nghệ sĩ nhí trở nên thật đáng yêu.
Thành phố không bảo thủ
Người ta nói dân Anh bảo thủ không phải là không có lý do. Nhưng tại Birmingham, tính bảo thủ dường như rất nhạt nhòa. Nếu như những thành phố khác giữ nguyên các kiến trúc công cộng trong nhiều thập kỷ, Birmingham sẵn sàng xóa bỏ những cái không còn hiệu quả và nhanh chóng cho xây những tòa nhà hiện đại thế vào. “Đối tác” của tôi luôn miệng ngạc nhiên: “Cái này mới! Cái này hồi đó chưa có! Cái này lạ quá!”. Này là khu chợ Tàu được mở rộng diện tích kinh doanh. Kia là shopping center BullRing mới xây nằm thật hoành tráng, sát bên một công trình cổ xưa giữa trung tâm thành phố. Và ấn tượng nhất là “The new Selfridges building”, một trung tâm mua sắm có thiết kế lạ lùng, mới mọc lên. Tòa nhà có phân nửa diện tích trông khác hoàn toàn với nửa kia: dát những “hột nút áo” khổng lồ, kín bưng không một cửa sổ và hình thù “cong cong ẹo ẹo” ngộ nghĩnh.
Thành phố Đại học
Birmingham còn nổi tiếng là thành phố Đại học. Và cũng vì lẽ đó, “đối tác” của tôi mới đến du học và năm năm sau có dịp nhảy chân sáo dắt tôi quay về “thăm trường xưa lối cũ”. Anh rất tự hào về ngôi trường của mình: Đại học Birmingham.
Đây là một trong ba trường lớn của thành phố, cùng với Đại học Aston và Đại học Central England. Đại học Birmingham không hề giống những ngôi trường cổ kính ở Oxford hay Cambridge, trường này có kiến trúc hiện đại, to “khủng bố” với một tháp đồng hồ cao chót vót và mừng rằng không đến nỗi xấu xí. Trường có khuôn viên rộng rãi phủ xanh bằng các loại cây cỏ. Mùa xuân hoa nở rợp trường thật ấn tượng. Này là hoa đào hồng, này là hoa đào trắng, này là hoa huệ vàng… Tuy có kiến trúc hiện đại, Đại học Birmingham lại có lịch sử đến trên 100 năm. Ký túc xá nằm sát bên thì rõ ràng là mỗi năm được nới rộng thêm đáng kể. Vậy mà cũng không đáp ứng đủ nhu cầu của sinh viên từ khắp nơi đến học. Xung quanh trường là những khu phố được người dân dành cho sinh viên thuê. “Đối tác” dắt tôi tìm thăm lại “nhà cũ”, một căn nhà be bé, có ba phòng ngủ và một căn bếp. Nhà hiện chưa có ai thuê nên đang treo bảng “To let” trước cửa. Những kỷ niệm của một thời đèn sách ùa về, vất vả mà tràn ngập hân hoan…