Trận đấu mùa đông - Phần kết

Phần kết

Buổi tối đã rũ xuống mảnh vườn. Helen thích thú ngửi mùi mật ứ của cây ông lão. Cô không vội vã thu hết quần áo treo trên dây phơi. Ban đêm sẽ êm dịu, và người phụ nữ trẻ không vội vã trở vào nhà,

- Mẹ ơi, điện thoại của mẹ! Đứa con gái bỗng gọi từ phòng khách.

Helen bỏ giỏ quần áo dưới dây phơi chạy vào. Đứa bé chìa ống nghe cho cô và nói lặng lẽ:

- Một chú.

- Cám ơn con, đi mặc áo ngủ nhé, mẹ đến ngay đây.

Giọng nam giới, trầm trầm xa lạ với cô:

- Chị Helen Dormann phải không?

- Vâng, là tôi, Helen trả lời mặc dù cô đã mang một tên khác từ nhiều năm nay.

- A, chào chị Helen! Em là Octavo đây. Em vui vì tìm lại được chị. Em có tin buồn.

- Octavo ư?

- Vâng. Octao…Octavo của mẹ Paula đây. Chị nhớ chưa?

Helen tự từ ngồi xuống ghế. Từ rất lâu cô không gặp lại mẹ Paula. Một trăm lần, cô tự hứa đến thăm bà, và một trăm lần cô lại tặc lưỡi tự nhủ để sau. Cửa hàng sách, những đứa con, khoảng cách… Còn Octavo, cô đã hoàn toàn quên mất.

- Chúa ơi, cô ấp úng, Octavo… Em thế nào? Cảm giác thật ngộ khi nghe em nói giọng của một người đàn ông…

- Em gọi chị từ làng, anh nói, mẹ Paula vừa mới mất. Em nghĩ có lẽ chị muốn biết điều đó.

Ngay sáng hôm sau, cô bắt xe khách. Suốt chặng đường dài, những kỷ niệm tràn ngập trong cô, và cô không đọc nổi cuốn tiểu thuyết mang theo. Octavo đón tiếp cô tại ngôi nhà nhỏ bằng gạch số 46 trong làng những người mẹ tinh thần. Cô khó khăn lắm mới nhận ra anh. Anh cao lớn và khỏe mạnh. Cằm và hai bên má lởm chởm râu.

- Lại đây. Me đang năm trên giường, trên tầng hai. Chị sẽ thấy, trông mẹ rất bình yên.

Paula nằm trên giường, hai tay đặt chéo trước ngực. Khuôn mặt hoàn toàn thanh thản của bà vẫn làm người khác yên tâm và như muốn nói với những người đến thăm bà lần cuối cùng: “Bạn thấy đấy. Chỉ là vậy thôi, không việc gì phải quan trọng hóa vấn đề lên cả” Đã khóc cạn nước mắt trong chuyến đi, Helen giờ đây đã vượt qua nỗi đau. Cô hôn lên trán người cô coi là mẹ, và ngồi lại thật lâu bên trên giường

Cô giúp đỡ Octavo trong thời gian tang lễ. Anh có một chiếc ô tô, cô sẽ trở về thủ đô với anh khi tất cả đã tươm tất.

Sáng hôm họ xuất phát, cô đề nghị anh đợi thêm một giờ. Cô đi xuống quả đồi, không khó khăn để tìm lại chính xác nơi cô, cùng với Milena, đã gặp Milos và Bartolomeo mười lăm năm trước, mà cô tưởng như chỉ vừa mới đây. Cô đi theo phố Những Con Lừa Cái, qua cầu, ngắm nhìn vẻ kiên nhẫn vô tận của bốn hiệp sĩ đá. Nắng chiếu rát. Cô choàng chiếc áo chui đầu lên vai, và tiếp tục đi, đôi cách tay để trần. Dòng nước sông lấp lánh.

Cô đi vào cổng trường nội trú để mở. Cái gác canh cũ kỹ của mụ Xương khô vẫn không thay đổi. Khi đi qua, Helen vẫn nổi da gà và chờ đợi thình lình nghe giọng chua loét của mụ thường trực: “Cô đi đâu thế này, cô gái?” Nhưng chỉ có tiếng ríu rít của bầy chim sẻ đậu trên cành cây trong sân.

Cô đi vào tòa nhà, thấy cánh cửa nhà ăn hé mở và đẩy vào.

- Đóng cửa rồi chị ơi. Chị tìm gì vậy?

Không bàn, không ghế, nơi đây thật khó nhận ra. Mấy cuộn dây điện nằm dưới nền nhà.

- Tôi có thể giúp gì được hị? anh công nhân vừa hỏi vừa bắt vít công tắc điện.

- Vâng, à không… Tức là, tôi từng là học sinh nội trú ở đây… lâu lắm rồi… ở trường nội trú… tôi muốn thăm một chút…

- À tôi hiểu rồi. nhưng bây giờ trường đang đóng cửa. Kỳ nghỉ mà…

- Tất nhiên rồi. Tôi xin lỗi.. Tôi không muốn làm phiền. Anh có biết liệu có thể mở cánh cửa nhỏ kia được không, ở trong cùng ấy?

- À, cái hầm ư? Tôi không biết. Nhưng có một chùm chìa khóa treo trên cái đinh đằng kia. Nếu chị muốn thử… Chị cũng có thể sử dụng đèn pin của tôi, trong hộp dụng cụ ấy.

Thử đến chiếc chìa thứ ba thì mở được ổ khóa. Helen soi đèn trong cảnh tối tăm và đi xuống cầu thang. Khi đã xuống dưới, cô đi theo hành lang, trên giăng đầy mạng nhện bụi bặm. Cánh cửa nhà ngục, bị dỡ ra và đập làm đôi, chắn ngang đường đi. Cô nhấc chân qua. Mùi ẩm mốc xông lên họng. Dưới nền, chiếc giường sập xuống và lẫn lộn với đất. Một cái xô thủng và han gỉ nằm lăn lóc trong một góc.

Không còn hình vẽ nữa, không còn Bầu trời, không còn gì nữa.

Đàn chim đã bay đi. Tất cả.

Lúc khó khăn nhất mà Helen không ngờ tới, lại chính là lúc Octavo vặn chìa và khóa lại đằng sau anh căn nhà nhỏ của mẹ Paula. Trên bậc cầu thang, cả anh, cả cô đều không thể giữ được những giọt nước mắt.

Nhưng trên đường, họ nói chuyện vui vẻ về cuộc sống cảu họ và trêu chọc nhau những chuyện trong quá khứ. “ Em có nhớ ‘Tùy ý muốn’ không? Helen hỏi. Và ‘bàn chân-bàn tay’ nữa?” Octovo đã quên, anh cười phá lên. Anh cảm thấy rất ngộ nghĩnh và tràn đầy niềm vui sống.

Anh đưa Helen về nhà chị đúng nửa đêm. Họ chia tay và lời hứa hẹn thỉnh thoảng gặp nhau để nói chuyện về mẹ Paula. Cô khẽ khàng bước vào ngôi nhà đang ngủ, nhưng khi vừa đẩy cánh cửa buồng ngủ của cô, thì một cánh cửa khác ở cuối hành lang mở ra và con gái cô xuất hiện.

- Con không ngủ ư. Thiên thần của mẹ?

Đứa bé lắc đầu. Nó xoắn vạt trước áo ngủ và có vẻ vừa mới khóc.

- Con có giấc mơ sầu, mẹ ạ, và rồi mẹ lại đi mất.

Helen ôm con, đặt nó nằm ngủ lại trên giường và ngồi lại gần để đứa bé yên tâm.

Cô vuốt ve mái tóc của con gái, nói chuyện nhẹ nhàng.

Dường như trong đôi bàn tay dịu dàng và trong giọng nói của cô tuôn chảy tình yêu đón nhận từ mẹ Paula, và giờ đến lượt cô truyền đi tình yêu đóm cũng mạnh như dòng sông.

- Mẹ đã về, cô nói. Hãy ngủ đi, người đẹp của mẹ, hãy ngủ đi. Tất cả sẽ tốt đẹp.

Lời cảm ơn

Tôi muốn nói lời cảm ơn đến những người đã đồng hành cùng tôi trong quá trình viết cuốn tiểu thuyết này: Thierry Laroche, nhà xuất bản Gallimard Jeunesse, vì những lời nhận xét rất thích đang và luôn chân tình; Jean- Phillippe Arrou- Vignod, nhà xuất bản Gallimard Jeunesse, người đã khuyến khích tôi viết “câu chuyện nhảm nhí”; Patrick Carrire, thầy thuốc, vì sự giúp đỡ của ông với những gì liên quan đến lĩnh vực y tế; Christopher Murray, nhạc công, vì sự giúp đỡ của ông, cũng vô cùng quý báu, liên quan đến âm nhạc; Rachel và các con tôi Emma và Colin, những người đã tặng tôi món quà vô giá và luôn mới mẻ vì sự xuất hiện của họ bên cạnh tôi.

Cuối cùng tôi muốn bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến Kathleen Ferrier, giọng nữ trầm người Anh, người có giọng hát và số phận nghiệt ngã đã xuyên suốt trong cuốn sách của tôi. Không có bà, cuốn tiểu thuyết này không thể ra đời.

J.-C.M