Chuyện tình vịnh Cedar (Tập 1) - Chương 18 phần 1
18
Olivia thấy dễ chịu. Còn hơn cả dễ chịu. Chị cảm thấy tự tin, thành công và thật sung sức. Hôm nay là một ngày làm việc vô cùng hiệu quả của chị ở tòa án, vì mùa hè đang vào thời kỳ đẹp nhất, nên chị có ý định tận dụng thời gian còn lại của buổi chiều.
Thời tiết này thật lý tưởng để ngồi uống cà-phê dọc bến cảng và tận hưởng một chai rượu cùng món tôm kênh đào Hood ngon lành. Olivia không thể nghĩ ra người nào hợp hơn Jack Griffun để cùng chị chia sẻ sự tuyệt vời ấy. Anh là một người bạn rất thú vị. Trong ba tuần kể từ sau chuyến pic-nic ngày 4 tháng 7, họ đã cùng tham dự một cuộc họp chính trị mà sau đó Jack có viết một bài báo về nó. Rồi chị đi cùng anh trong buổi phỏng vấn người phụ nữ đan bằng kim móc những chiếc khăn ăn cho phiên chợ Nông Dân ngày thứ bảy. Bài báo được đăng trên số ra ngày thứ tư trong Bản tin vùng vịnh Cedar. Tối thứ 6 tuần trước, Jack đưa chị đi ăn tối tại nhà hàng Willcox, có thể coi nó như một Thyme and Tide ở Seabeck mà Bob và Peggy Beldon đã từng giới thiệu với Jack. Chủ nhân của nó lấy làm kiêu hãnh vì Clark Gable đã từng thuê phòng nghỉ ở đây, và cả những món ăn tuyệt vời của mình. Lần này, Jack lại đang viết bài. Đã quá lâu rồi họ không dược nghỉ ngơi. Olivia quyết định đã đến lúc họ ra ngoài thư giãn thay vì chỉ chăm chăm vào công việc.
Ngả lưng vào chiếc ghế trong văn phòng, Olivia với chiếc điện thoại và bấm số của anh. “Xin chào”, chị nói ngay khi anh nhấc máy.
“Chào em. Nhờ đâu mà anh có được vinh dự này thế?”. Jack thực sự vui khi nghe thấy giọng nói của chị.
“Em chuẩn bị có một đề nghị mà anh không thề từ chối”.
“Nghe thú vị đấy”.
“Em hứa là sẽ thú vị”. Olivia thích kiểu đùa cợt của họ.
Jack cười. “Anh không đợi được nữa. Em có ý tưởng gì?”
“Anh nhắm mắt lại”, chị thì thầm đầy quyến rũ. “Hãy hình dung anh đang ngồi ngoài vịnh”.
“Anh có ngồi cùng ai không?”, anh xen vào.
“Tất nhiên. Anh đang ngồi cùng em”.
“Em đang mặc gì?”.
“Anh Jack!”.
“Quan trọng đấy”.
Chị thở dài giả vờ bực mình. Biết hài hước là điểm chị thích nhất ở Jack.
“Thôi được. Em mặc áo ba lỗ, quần soóc, đội chiếc mũ chống nắng rộng vành và đeo kính râm”.
“Anh thích em đeo kính râm. Lúc đó trông em sẽ rất huyền bí”.
Chị cười vang; chị chẳng có gì huyền bí cả - tất nhiên trừ sự hấp dẫn ngày càng lớn của chị với anh.
“Sau đói, hãy lắng nghe tiếng nhạc”.
“Dire Straits? Guns n Roses? Red Hot Chili Peppers?”
“Không”, chị thở dài. “Em đang nghĩ nhiều hơn đến Neil Diamond, Barry Manilow, Henry Mancini”.
“Barry Manilow? Không phải là Barry Manilow chứ”.
“Tình cờ em lại thích Barry Manilow”, chị nhấn mạnh.
Lần này đến lượt anh thở dài. “Anh không biết chuyện này có hi vọng gì không”.
“Thôi được, chúng ta sẽ dàn xếp vụ âm nhạc”.
“Nếu em thích Barry Manilow, thì anh chẳng thể làm gì cả”.
“Vậy thì Eric Clapton”, chị gợi ý “Bob Dylan hay hơn. Đồng ý chứ?”.
“Thôi được. Em nói tiếp nhé?”.
“Em nói đi”, anh giục, như thể chị chính là người chủ trì.
“Chúng ta cùng nhau ngắm mặt trời lặn trên vịnh, cùng nghe những bản nhạc du dương êm ái sẽ cùng thưởng thức những ly rượu tuyệt vời nhất”. Chị lưỡng lự, tất nhiên anh sắp sửa tranh luận xem họ sẽ uống rượu gì.
“Chúng ta có cần tranh luận về rượu không?”. Chị hỏi
“Không”, anh chắc chắn, “em chọn đi”.
“Được. Rượu nho Gewurztraminer”.
“Chẳng phải rượu đó hơi ngọt sao? Em có chắc em thích nó...”.
“Em tưởng chúng ta sẽ không tranh luận về rượu. Anh có thể uống thứ gì anh thích và em sẽ uống thứ em thích”.
“Thế cũng được”. Đột nhiên anh lại chủ động dàn hòa.
“Một người phục vụ xuất hiện cùng thực đơn”, chị tiếp tục.
“Nếu thực đơn có dải băng đánh dấu, thì anh không thích ăn ở đó đâu”.
“Không có dải băng đánh dấu”.
“Tốt”. Jack nói ngay. “Thế người phục vụ đã mang bánh mì ra chưa? Anh đang đói quá”.
“Đừng giục anh ta, chứng ta vẫn đang thưởng thức rượu mà”.
“Trong lúc em uống rượu, anh muốn ăn một miếng bánh mì nóng phết bơ”.
“Anh đang khiến mọi chuyện trở nên khó khăn đấy, Jack”.
“Thôi được, tiếp tục đi, nhưng anh phải nói với em rằng hôm nay anh làm việc xuyên trưa, thế nên nếu em định mất thời gian lên danh sách những món đặc biệt cho bữa tối, anh sẽ phải chạy ra máy bán kẹo mất”.
Olivia nghe thấy tiếng mở đóng của ngăn kéo. “Anh đang làm gì thế?”.
“Em nghĩ sao? Anh đang tìm thứ gì đó để ăn”. Tiếng nhai rau ráu vang lên ngay sau lời giải thích của anh. “Thứ tốt nhất anh có thể nghĩ ra là những chiếc bánh quy giòn”.
“Tội nghiệp. Thế nghĩa là anh không muốn nghĩ đến món mỳ ống nêm gia vị tôm, sò huyết, tôm hùm, rồi nước xốt kem Alfredo”.
“Em đúng là người phụ nữ tàn nhẫn, Olivia Lockhart”.
Olivia cười khoái trá. “Anh cứ đợi tới khi em cho anh thấy em tàn nhẫn như thế nào”.
Jack hít một hơi thật sâu. “Anh thích khi em nói thế”.
Olivia giả bộ đe dọa bằng một tiếng “hừm”.
“Anh sẽ phải tới đó vào mấy giờ, ở đâu và đi bao xa?”.
“Bảy giờ tối nay”.
Anh do dự. “Anh... không thể”.
“Sáu giờ?”.
“Cũng không được”.
“Thôi được, tám giờ, nhưng như thế với em là quá muộn đấy”.
“Thế còn tối mai?”, Jack hỏi.
“Không được. Em có cuộc họp với ủy ban của tòa án. Sao tối nay anh không đi được?”.
“Anh không thể”.
Anh thật khó hiểu. “Jack, anh có cuộc hẹn khác rồi à?”, chị vừa hỏi vừa cười như thể đang nói đùa. Cả hai người bọn họ đều chưa có gì để ràng buộc nhau.
Anh được tự do hẹn hò với bất kỳ ai, cũng như chị vậy. Nhưng chị chẳng hẹn hò ai cả.
Anh dừng lại trước khi trả lời. “Không hẳn”, anh nói.
“Không hẳn”, chị lặp lại. Thế nghĩa là thế nào? “Anh đang làm việc bất hợp pháp à?”, chị hỏi.
“Không. Chỉ là một việc bí mật thôi”.
“Chỉ là một việc bí mật thôi”, chị khẽ thì thầm.
Jack im lặng. “Nếu anh muốn thế”. Olivia ghét sự bí mật. “Em hiểu”, chị nói, không buồn che giấu nỗi thất vọng của mình.
“Olivia, anh xin lỗi. Anh rất muốn ăn tối cùng em, nhưng em sẽ phải chọn một buổi tối khác.” Olivia là người phụ nữ thẳng thắn; chị không thích cách anh giấu giếm và giải thích rằng đó là “bí mật”. Nếu anh có bí mật ghê gớm nào đó, chị muốn biết ngay bây giờ. “Thôi nào, em yêu, không quá quan trọng, phải không?”.
Em yêu. Giờ đã là em yêu của anh cơ đấy!
“Một buổi tối khác được chứ?”
“Không”, chị nhẹ nhàng nói nhưng đầy quả quyết. “Không ổn tí nào”.
“Để anh nói xem anh có hiểu đúng không”, Jack nói sau hồi lâu im lặng. “Em giận vì anh không thể đi ăn tối cùng em tối nay”.
“Không, Jack ạ, không phải thế”. Chị ngồi ngay ngắn trên ghế. “Em xin lỗi. Dường như em ảo mộng về mối quan hệ của chúng ta...”
“Olivia...”
“Không, em hiểu mà”.
“Em không hiểu”.
“Em hiểu”. Anh muốn mọi thứ diễn ra theo ý mình, nghĩa là bất kỳ mối quan hệ nào với anh cũng đều phải có giới hạn. Anh có những bí mật của mình, và chị đã không để ý đến điều đó.
“Olivia...”
“Em rất tiếc khi anh không thể đi ăn tối”, chị nói, lần thứ hai xen ngang lời anh. “Chúng ta sẽ đi ăn vào một hôm khác”. Có thể là mười năm sau.
“Đừng gác máy!”. Jack kêu lên.
May sao, chị vẫn chưa kịp cúp máy.
“Anh biết chuyện này sẽ dẫn đến đâu. Lần sau anh gọi và rủ em đi ăn, em sẽ có lý do từ chối. Lần sau nữa cũng vậy, cho đến khi anh chỉ còn nhận được lời nhắn tự động trên máy. Khỉ thật Olivia, anh sẽ không để điều đó xảy ra đâu”.
“Vậy em sẽ hành động trước. Anh Jack, theo em chúng ta không nên tiếp tục gặp nhau nữa”.
“Tại sao? Vì hôm nay anh không thể đi ăn tối cùng em ư?”.
“Không phải”, chị đáp ngay. “Vì em từng lấy một người luôn giữ bí mật với em. Và em không muốn tiếp tục quan hệ với một người không cởi mở chân thật nữa”.
Im lặng.
“Em nói không sai, đúng không?”, chị nhấn mạnh. “Anh là con người của những bí mật”.
Anh không trả lời câu hỏi ấy. “Nếu thấy thoải mái, em cứ nghĩ thế đi. Em nói đúng, anh có những bí mật của mình”..
Anh gác ống nghe, và Olivia nghe thấy tiếng tít tít vang lên trong máy. Lẽ ra Jack phải hiểu chị hơn thế, Olivia buông máy thất vọng. Chị không muốn nhận định của mình là đúng - rằng Jack có những bí mật không thể chia sẻ với chị.
Lúc Grace tấp xe vào lề đường, Buttercup từ lối đi dành cho chó ở phía sau ngôi nhà lao thẳng tới chỗ chị.
“Chào mày”, Grace vừa nói vừa bước ra khỏi xe. Chị cúi xuống gãi tai con chó, sau đó cả hai cùng bước tới chỗ hộp thư để xem có gì không.
Ngoài mấy tờ tạp chí và hóa đơn linh tinh, Grace còn nhận được cả tờ Bremerton Sun.
“Mày muốn ăn tối chưa?”, chị hỏi Buttercup rồi mở cửa bếp.
Con chó săn lông vàng bước về phía bát đựng nước của mình và tợp một ngụm, sau đó nó kiên nhẫn đợi Grace mở cánh tủ, lấy ra một túi to đựng thức ăn của chó. Chị đổ đầy vào bát của nó, rồi ngồi xuống liếc qua đống hóa đơn và thư từ.
Không có gì quan trọng.
Trong lúc đặt mấy tờ tạp chí lên bàn, chị nhận ra đèn báo tin nhắn nhấp nháy.
“Grace, Roy McAfee đây. Hãy gọi cho tôi khi nào chị về đến nhà”.
Dan.
Chắc hẳn Roy đã có tin gì đó của Dan. Tay chị run lẩy bẩy trong lúc lục tìm sổ điện thoại của Roy.
Corrie, vợ Roy đồng thời là trợ lí nối máy cho chị.
“Roy, tôi là Grace Sherman đây. Anh đã tìm ra Dan chưa?”
“Chưa, nhưng tôi nhận được bản báo cáo từ dịch vụ kiểm kê tài sản và tôi nghĩ có thể chị quan tâm đến những gì tôi phát hiện ra”.
Sau những điều tra đi vào ngõ cụt, Roy gợi ý nên yêu cầu kiểm tra tài sản trên máy tính, nhưng Grace do dự vì phải trả thêm phí hai trăm đô la cho việc này. Giả sử Dan có sở hữu một mảnh đất thì điều đó cũng sẽ chẳng giúp được chị tìm ra anh. Về vấn đề sở hữu tài sản, với chị các dữ liệu của ngân hàng cũng chỉ là vô ích.
“Vậy có gì thú vị không?”.
“Có. Báo cáo có ghi dữ liệu về một tờ đơn đăng ký của Dan hồi tháng 6 năm ngoái”.
“Cách đây một năm”
“Đúng. Chị không cho tôi biết hai người sở hữu một chiếc xe moóc dùng để đi du lịch”.
“Chúng tôi không hề có”.
“Theo các báo cáo của bang, Daniel Clayton Sherman ngụ tại số 204, đường Rosewood, vịnh Cedar, Washington, đã đăng ký cấp giấy phép cho một chiếc xe moóc dùng để di du lịch”.
“Khi nào?”. Grace hỏi. “Chính xác là khi nào?”.
“Ngày 16 tháng 6 năm ngoái”.
Ngày tháng ấy chẳng nói lên điều gì. Grace chết lặng.
“Tôi... tôi không biết gì về chiếc xe này cả”.
“Tôi đã gọi cho công ty bán chiếc xe cho anh ấy và phát hiện ra anh ấy trả bằng tiền mặt. Chiếc xe cao hơn 7m. Người bán hàng không thể nào quên, vì Dan đến cùng những tờ một trăm đôla mới tinh”.
“Bao nhiêu tiền?”.
“Theo người bán hàng, chiếc xe có giá mười ba nghìn đôla”.
“Tiền mặt?”. Họ không có mười ba nghìn đô la tiền mặt. Bất cứ khoản tiền thừa nào họ cũng đem đầu tư hết rồi. Gần như tất cả những gì họ tiết kiệm được đều nằm ở cổ phiếu và trái phiếu.
“Người bán khẳng định với tôi đó là những tờ một trăm đô la. Thực ra, anh ta hoàn toàn bất ngờ khi được đếm nhiều tiền mặt như thế”.
“Dan lấy đâu ra số tiền ấy nhỉ?”.
“Tôi không thể trả lời”, Roy nói.
Cả chị cũng vậy. “Dan không thể thế chấp cái gì đó mà tôi không biết, đúng không?”.
“Đúng”, Roy nói. “Theo những báo cáo ngân hàng tôi có trong tay thì không thể có chuyện ấy”.
Và nếu có, chắc chắn chị sẽ nhận được một loại giấy tờ nào đó chứng nhận khoản thế chấp kia.
“Thật vô lý, Dan không thể có được số tiền lớn như thế”. Nhưng rồi chị chợt nhớ ra rằng năm ngoái Dan có làm thêm một số việc. Chỉ điều này mới lý giải được tại sao Dan lại có số tiền mười ba nghìn đô la ấy thôi.
“Vậy chị không biết gì về chiếc xe mooc này?”
“Thực sự tôi không biết. Tôi chẳng có bằng chứng nào về việc này - ví dụ như thanh toán bằng thẻ tín dụng chẳng hạn. Không một có hóa đơn nào ghi tên anh ấy cả”.
“Nếu anh ấy có mười ba nghìn đôla bằng tiền mặt mà chị không hề hay, thì có nghĩa là chúng ta không thể biết anh ấy có tất cả bao nhiêu tiền”.
“Anh ấy có thể giữ số tiền này ở đâu?”.
“Anh ấy có ngăn để đồ không?”, Roy trả lời bằng một câu hỏi khác.
“Có… không. Tôi không biết nữa”. Trước đây họ có đăng ký một ngăn, nhưng mấy năm rồi chị không thấy tờ đăng ký khai lại.
“Hãy cho tôi biết”, Roy nói. “Hàng ngày ai là người lấy thư?”.
“Dan”.
“Đó là điều tôi đã nghĩ. Có một khả năng khác là Dan có thể có một ngăn để đồ ở bưu điện mà chị không hề biết”.