Chuyện tình vịnh Cedar (Tập 4) - Chương 20 - 21
20
Cliff Harding bước về phía tàu ngựa để ngắm nhìn chú ngựa non Funny Face mới ra đời cách đây vài tuần. Cal, người huấn luyện của Funny đang huấn luyện cho một chú ngựa đực ở bãi tập hợp ngựa. Trại ngựa này vốn là giấc mơ cả đời của Cliff. Vốn không phải là người đàn ông giàu có, nhưng sau mấy năm thực hiện những hạng mục đầu tư hiệu quả và đúng thời cơ, kể cả trên thị trường chứng khoán, lợi nhuận thu về đã giúp anh tậu được bất động sản ở Olalia và bắt đầu một trại nuôi ngựa nhỏ. Cliff quen Cal Washburn đã được vài năm. Anh gặp chàng trai này lần đầu tiên khi Cal đang làm việc ở Emerald Downs với giống ngựa thuần chủng. Cal đặc biệt thích ngựa và là một trong những nhà huấn luyện ngựa tài năng nhất mà Cliff từng biết. Cliff cảm thấy thật may mắn khi cùng hợp tác trên cơ sở chia sẻ lợi nhuận với Cal. Anh có khả năng giao tiếp với động vật rất tốt. Nếu Cliff tin vào các hiện tượng tâm lý thì anh sẽ cho rằng Cal có khả năng nói chuyện với ngựa bằng chính thứ ngôn ngữ của chúng. Cal không phải là một người đàn ông rụt rè, nhưng tật nói lắp của anh ta là một trở ngại lớn trong các mối quan hệ, đặc biệt là với phụ nữ. “Có một... cô nào... nào đó... đã gọi anh”, Cal lắp bắp thông báo khi nhìn thấy Cliff.
Cliff cau mày.
Thay vì giải thích, Cal thò tay vào túi lấy ra một mảnh giấy và đưa cho Cliff. Trong giây lát, Cliff không nhận ra tên người gọi, anh có cảm giác thất vọng. Bởi anh đang thầm mong, đang hy vọng rằng đó là cuộc gọi của Grace. Chuyện của họ đã kết thúc từ vài tháng nay, nhưng Cliff vẫn không thể ngừng nghĩ đến Grace. Đã có thời, mối quan hệ của họ đầy hứa hẹn. Sau khi ly dị, anh hiếm khi hò hẹn cùng ai. Anh đã có hai mươi năm sống cuộc sống vợ chồng với Susan và mười năm cuối, chỉ là để duy trì cuộc hôn nhân ấy. Lý do chính là vì cô con gái Lisa của họ.
Susan đã làm anh mất lòng tin không chỉ một lần mà nhiều hơn những gì Cliff có thể đếm được. Ngoại tình và lừa dối chồng dường như là một căn bệnh của Susan. Cliff rời bỏ cuộc hôn với vết thương lòng cùng sự tan vỡ niềm tin. Phải mất nhiều năm sau anh mới bắt đầu tìm kiếm một mối quan hệ khác. Khi gặp Grace, ngay lập tức anh bị chị hấp dẫn, anh mến chị và trân trọng chị. Khi đó, chồng Grace vừa biến mất vì một lý do nào đó và chị đã đệ đơn xin ly dị. Anh ngưỡng mộ cách Grace xử lý mọi việc trong tình huống đó. Khi tìm thấy xác Dan Sherman, Cliff đã dõi theo Grace khi chị tổ chức tang lễ cho người chồng quá cố của mình. Anh đã đem lòng yêu Grace ngay khi chị vừa bình phục trở lại sau những mất mát và đau thương. Anh mong rằng một ngày kia có thể cầu hôn chị. Và rồi Cliff bị sốc khi Grace lừa dối anh. Vấn đề là Grace vốn không phải là kẻ nói dối nên rất dễ dàng nhận ra điều đó. Vì vậy anh đã quyết định rời xa chị mà không hề luyến tiếc.
Sau khi kiểm tra hai mẹ con Funny Face, Cliff đi vào nhà và xem lại cuộc gọi. Anh nghiên cứu cái tên - Janet Web. Anh không nhận ra nổi cái tên cũng như số điện thoại đó là từ đâu ra. Anh hơi ngạc nhiên khi nghe thấy giọng nói vang lên từ đầu dây bên kia rằng anh đã gọi tới Ủy ban bảo vệ động vật địa phương. Anh xin gặp Janet và giữ máy chờ.
“Janet web nghe đây”. Giọng nói nhanh nhẹn và chuyên nghiệp của người phụ nữ khiến Cliff bớt đề phòng. Có vẻ như anh đang làm ngắt quãng cuộc họp của họ về một dự án quan trọng nào đó và cô ấy đang bực mình với anh.
“Cliff Harding gọi lại đây. Lúc trước cô đã gọi cho tôi”, anh giới thiệu bằng giọng bực mình.
“Anh Cliff Harding”. Giọng nói Janet dịu lại. “Tôi đánh giá rất cao vì anh đã gọi lại. Tôi biết là anh đã nghe nói về cuộc đấu giá Chó và Những người đàn ông độc thân của chúng tôi tuần tới rồi”.
“Đúng, tôi có nghe đồn”. Cliff không đủ khả năng giả vờ để lờ sự kiện này đi được. Khắp thị trấn dán đầy áp phích, quảng cáo thường xuyên xuất hiện trên các mặt báo, thậm chí trên cả tờ tin tức của Seattle. Cliff sẽ vui vẻ đóng góp sức mình dù anh chẳng thích thú gì về việc tham gia hoạt động này.
“Chúng tôi rất thất vọng khi biết anh không tình nguyện tham gia làm một trong những anh chàng độc thân của chúng tôi”. Giọng Janet trở nên thân thiện hơn.
“Vâng, đúng...”.
Cô không để cho anh nói hết. “Có vài người đã nhắc đến tên anh.”
“Tôi rất vinh dự, nhưng...”.
“Vậy anh sẽ không phiền nếu tôi đề thêm tên anh vào danh sách chứ?”. Giọng Janet hứng khởi như thể cô đã thuyết phục được người đối thoại.
Cliff biết rằng phải tỏ ra thật kiên quyết mới khước từ nổi người phụ nữ này. “Tôi không nghĩ vậy”.
Sự từ chối của anh khiến Janet ngừng lại một chút. “Có lý do đặc biệt nào không anh Harding? Sao anh lại không ủng hộ Ủy ban bảo vệ động vật thế?”. Cliff máy môi, định nhắc nhở Janet rằng anh vốn là người rất yêu động vật, nhưng rồi lại thôi. “Ai chẳng hiểu rằng những con vật giữ một vị trí hết sức quan trọng trong trái tim của một người nuôi ngựa. Ai cũng tưởng rằng một người nuôi ngựa sẽ…”.
Anh chen vào. “Tôi nghĩ người huấn luyện của tôi, Cal Washburn là một trong số những người đàn ông độc thân mà tôi gợi ý sẵn sàng tham gia”. Cliff đã nghĩ Cal sẽ không tha thứ cho anh về việc này. Đưa Cal ra sẽ là một mũi tên trúng hai đích: Giúp Cliff thoát khỏi danh sách và giúp Cal được dịp tiếp xúc với xã hội nhiều hơn, đặc biệt là thế giới phụ nữ. Chí ít anh ta cũng là một thanh niên trẻ mà. Nhưng Cliff lại rất ngạc nhiên khi anh chàng đồng ý tham gia dù ít khi giao tiếp ở nơi công cộng. Cliff trấn an anh chàng rằng tất cả những gì anh phải làm chỉ là đứng trên sân khấu và nghe những người phụ nữ trả giá cho mình mà thôi.
“Vâng, tôi đã thấy tên anh Washburn có trong danh sách”, Janet nói. “Nhưng thế còn anh?”.
“Tôi rất vui khi cô hỏi về tôi, nhưng tôi xin lỗi. Tôi không thể”. Dù là hoạt động từ thiện, anh vẫn phải có những giới hạn của riêng mình.
“Tôi biết”, Janet nói giọng nghiêm trọng. “Sẽ thế nào nếu tôi nói rằng sự tham gia của anh có ảnh hưởng rất lớn tới hoạt động của chúng tôi?.”
“Ý cô là sao?”.
“Một người giấu tên nào đó đã đề nghị tài trợ một khoản lớn nếu tôi thuyết phục được anh tham gia vào cuộc đấu giá”.
“Cái gì?”. Cliff tưởng mình nghe nhầm.
“Đúng vậy. Như tôi đã nói, có người tài trợ một khoản lớn cho chúng tôi nếu anh trở thành một trong số những người đàn ông độc thân tham gia vào cuộc đấu giá”.
Clift thấy thích thú. “Ai vậy?”
“Tôi e là tôi không có quyền nói”.
Đó chỉ có thể là Grace, Cliff ngẫm nghĩ, nhưng cô ấy lấy đâu ra tiền để hành động thế nhỉ. “Nam hay nữ?”, anh băn khoăn.
Janet Web cười. “Như tôi đã nói. Anh Harding, tôi không có quyền tiết lộ nguồn tin này”.
“Số tiền tài trợ là bao nhiêu?”
“Tôi cũng không được phép tiết lộ”.
Cliff tặc lưỡi. Anh hoàn toàn bối rối trước tình huống bất ngờ. “Anh Harding, tôi chân thành hy vọng anh sẽ đổi ý”.
Cliff nghĩ ngợi rồi thở dài. “Cứ cho là tôi sẽ tình nguyện tham gia”. Anh không vui vẻ gì khi phải dự phần vào hoạt động này, nhưng anh không muốn Ủy ban bảo vệ động vật bị mất tiền vì mình. Dù sao thì bây giờ anh cũng chẳng còn cách nào khác. Anh đã nhận lời tham gia rồi.
Một lát sau, Cliff bước ra ngoài để nói chuyện với Cal. “Anh có biết gì về cuộc gọi của người phụ nữ ban nãy không?”.
Anh chàng huấn luyện lắc đầu.
“Có ai đó sẽ tài trợ cho Ủy ban bảo vệ động vật nếu tôi đồng ý tham gia vào cuộc đấu giá”.
Mắt Cal mở to. “Anh... Anh... sẽ.. . sẽ... tham... gia... gia.. chứ?”. Cliff nhún vai gật đầu. “Này, cậu không liên quan gì đến việc này đấy chứ?”.
Cal lại lắc đầu. “Chắc… chắc... là... G... Grace?.
Giả thiết đầu tiên của Cliff cũng là Grace có dính líu đến việc này, nhưng cuối cùng anh gạt bỏ, nó không hợp lý lắm, không phải chỉ vì Grace không có nhiều tiền.
Cliff mới nhìn thấy chị ở phiên Chợ của những người nông dân. Lúc đó, Grace đang nói chuyện với Stanley Lockhart, chồng cũ của Olivia. Lúc nhìn thấy anh, trông chị đầy vẻ hối lỗi. Cliff ngờ rằng chị bắt đầu hẹn hò với người đàn ông khác. Ý nghĩ Grace hẹn hò với Stan làm Cliff khó chịu, nhưng anh phải cho chuyện đó ra khỏi đầu mình. Nếu Grace thực sự muốn có một mối quan hệ trên mức xã giao với chồng người bạn thân nhất - đúng, thì đó tất nhiên chẳng phải là việc của anh.
Ấy vậy mà Cliff vẫn không biết tại sao mình lại nhìn nhầm về con người Grace nhiều đến thế. Chị không phải là người thật sự đáng tin tưởng, cũng không phải là người thẳng thắn, thật thà nhất như anh từng nghĩ. Và anh rất buồn vì điều đó.
Cliff bất giác nhìn lên và bắt gặp Cal đang cố nhịn cười. “Thôi đi”, anh gầm lên.
Cal phá ra cười.
“Chẳng có gì hài hước cả”. Cal càng cười to hơn.
Cuối cùng Cliff cũng cười theo. Anh không thể tưởng tượng nổi ai lại sẵn sàng trả tiền cho mình, nhưng nếu tìm ra thì hẳn sẽ rất thú vị.
21
Jon dắt Maryellen và Katie ra khỏi xe rồi đặt con gái vào chiếc xe đẩy ở ghế sau. Càng ngày Maryellen càng thấy chán đi làm vì hàng sáng cô chỉ muốn ở nhà với chồng và con nhiều hơn. Jon và Maryellen đã đồng ý với nhau là cuối năm nay cô sẽ nghỉ việc, chừng nào họ ổn định được tình hình tài chính. Maryellen hy vọng mình lại có thai. Cô muốn đứa bé tiếp theo chỉ cách Katie hai hoặc ba năm thôi.
Maryellen mở cửa bên lái xe. Jon bước theo và cầm tay vợ. “Anh không muốn thấy em và Katie phải xa anh mỗi sáng”, anh lẩm bẩm những lời than phiền tiếc rẻ giống hệt như suy nghĩ của Maryellen.
Cô vòng tay ôm chồng và gục đầu vào ngực Jon. “Em cũng không muốn rời xa anh”.
“Sẽ không lâu nữa đâu”, anh hứa với cô.
Maryellen gật đầu. Họ hôn tạm biệt nhau. Cô chui vào trong xe rồi lái đến vịnh Cedar. Kelly, em gái cô trông Katie vào ban ngày kể từ năm ngoái khi Maryellen đi làm trở lại. Thỏa thuận giữa hai người rất rõ ràng và điều đó tốt cho cả hai. Em gái cô sẽ có một khoản thu nhập thêm trong khi chưa đi làm, còn Maryellen cảm thấy yên tâm vì con gái mình đang được người trong gia đình chăm sóc. Tyler, con trai của Kelly, rất thích chị họ mình và xem Katie như cô chị bé bỏng. Kelly và Paul, chồng cô, đều đang muốn có đứa con thứ hai. Mặc dù đã từng nhắc tới chuyện đó với Maryellen nhưng hình như Kelly gặp trục trặc nên rất khó thụ thai. Ngày trước, mong chờ mãi Kelly mới sinh được bé Tyler.
Maryellen thông cảm với em gái điều này, nhưng cô không cảm thấy là có thể tự nhiên chia sẻ với em mình trừ khi Kelly đưa ra vấn đề này trước. Vừa bước vào phòng tranh ở phố Harbor, Maryellen chẳng còn thời gian mà nghĩ tới gia đình nữa. Mùa hè bao giờ cũng là mùa bận rộn với rất nhiều hoạt động du lịch. Đó cũng là nguyên nhân của việc tắc đường. Nhưng Maryellen thích thế. Vài năm trước, cô cắt đứt quan hệ với Jon để che giấu sự thật rằng cô đang mang thai đứa con của anh. Để tránh gặp mặt Maryellen, anh đã chuyển ảnh từ triển lãm nghệ thuật địa phương tới một triển lãm nổi tiếng khác ở Seattle mà không hề biết Maryellen đang có mang đứa con của mình. Từ đó, sự nghiệp của anh thành công vang dội. Giờ đây, anh lại trở lại hợp tác với phòng tranh ở phố Harbor nơi Maryellen làm, và ảnh của anh cứ trưng bày ra đến đâu là hết đến đó.
Maryellen biết rằng Jon đã rời bỏ triển lãm đó vì mình. Vì Maryellen, anh sẵn sàng đánh đổi tất cả, thậm chí là không trung thành với người chủ cũ ở triển lãm Seattle đã cho anh khởi đầu sự nghiệp. Áp lực về thời gian và tài năng khiến anh luôn bận rộn. Maryellen đang hy vọng có thể giúp chồng đưa tác phẩm tới trưng bày tại tất cả các triển lãm ở khắp Bắc Mỹ. Cô có rất nhiều ý tưởng, kể cả việc in khổ lớn như áp phích hay để ở dạng nhỏ như bưu thiếp. Buổi trưa, Jon gọi cho cô và họ nói chuyện với nhau một lát. Họ không thể chịu nổi nếu xa nhau quá vài tiếng đồng hồ mà không nhớ về nhau hoặc không nói chuyện với nhau, dù chỉ là năm phút trên điện thoại.
“Chiều nay anh sẽ làm việc trong phòng rửa ảnh”, Jon kế với vợ.
Như thế cũng có nghĩa là cô không nên gọi anh nếu không có việc cực kỳ cấp thiết. “Vâng”.
“Mấy giờ em sẽ về nhà?”.
Maryellen mỉm cười trước câu hỏi của chồng. Chiều nào cô cũng tới đó trong vòng đúng mười phút. “Năm giờ ba mươi”, cô nói đùa.
“Hay lắm, Maryellen”.
“Sẽ còn hay hơn nếu anh muốn điều đó.”
“Anh chỉ muốn em, Lúc nào cũng vậy”.
“Em rất thích khi được nghe điều đói vì em sẵn sàng dành tặng anh cả tâm hồn và thể xác của em”.
Jon cười. “Năm giờ ba mươi anh sẽ chờ hai người phụ nữ yêu dấu của anh.”
“Là những ai vậy, thưa Đại úy?”. Maryellen vừa cười vừa đổi bên tai nghe đã bị nóng lên vì cuộc nói chuyện của họ.
Một lát sau, khi trợ lý của Maryellen đang nghĩ để ăn trưa thì có một đôi vợ chồng già bước vào. Tòa nhà có tuổi đời hơn một thế kỷ này chính là một di tích lịch sử của vịnh Cedar. Bao giờ cũng vậy, cứ mỗi khi Maryellen bước ra ngoài chào khách là sàn gỗ lại kêu cót két. Tường triển lãm treo rất nhiều tác phẩm nghệ thuật gồm những bức vẽ và ảnh của các nghệ sỹ địa phương. Ba bức mà Jon mang tới tuần trước đã bán hết cả rồi. Maryellen dõi theo hai người khách, tay trong tay, họ đưa mắt khắp căn phòng. Có vẻ như họ không phải là khách du lịch bình thường. Người đàn ông mặc quần dài và áo sơ mi ngắn tay, còn người phụ nữ mặc một cái váy thắt eo kiểu rũ. Trông họ có vẻ giống như đi thăm nhà thờ hơn là thăm một thị trấn nhỏ.
“Xin chào”, Maryellen chào họ một cách thân thiện. “Chào mừng quý khách đến với phòng tranh phố Harbor. Tôi có thể giúp gì cho ông bà không ạ?.”
“Xin chào”. Người phụ nữ cười đáp lại rồi quay sang chồng mình chờ đợi. Khi không thấy ông nói gì bà ta lên tiếng. “Chúng tôi nghe nói ở khu vực này có một nhiếp ảnh gia chụp ảnh thiên nhiên rất tài năng đang có tác phẩm trưng bày tại đây”.
“Đó là Jon Bowman”. Lần nào có khách hỏi về anh, Maryellen cũng tiếc run cả người. “Tôi e là đã hết ảnh của Bowman mất rồi. Cuối tháng này sẽ có thêm”.
“Ôi”, người phụ nữ kêu lên thất vọng.
“Ảnh của anh ấy cũng có ở một triển lãm tại Seattle. Tôi sẽ cung cấp tên và số điện thoại nếu ông bà muốn”.
Bà ta gật đầu nôn nóng. “Vâng, hãy giúp chúng tôi bằng mọi giá nhé”. Maryellen bước tới bàn của mình và lấy một tấm danh thiếp giao dịch của triển lãm có trưng bày ảnh của Jon.
Người đàn ông khá cao và có phong cách rất lịch sự trang trọng. Ông nhận tâm danh thiếp, cúi đầu cảm ơn và nhìn chằm chằm vào đó. Ở ông ta có cái gì đó khiến Maryellen chú ý, nhưng cô không thể chỉ ra chính xác đó là gì.
Người phụ nữ xích gần lại chỗ chồng. “Chúng ta không nhầm chứ? Jon, ông Jon Bowman có sống ở khu vực này không?”.
“Có, anh ấy đang sống ở đây ạ. Thật tình cờ, tôi chính là vợ của anh ấy”. Maryellen trả lời rất đỗi tự hào.
“Tôi cũng đoán vậy”, người đàn ông nói. Đó là lời đầu tiên của ông. Giọng ông thấp, hơi cộc lốc như thể ông rất kiệm lời.
Người phụ nữ lại quay sang chồng lần nữa.
“Nếu ông bà thích xem bất kỳ tác phẩm nào của anh ấy....”
“Chúng tôi rất thích”, người phụ nữ ngắt lời Maryellen. “Điều đó rất có ý nghĩa đối với cả hai chúng tôi”.
Maryellen bước lại phía cửa sổ. “Nếu ông ghé vào nhà hàng Hải Đăng ở ngay dưới phố, ông bà sẽ thấy ở đó treo vài bức ảnh của Jon”. Cô chỉ tay về phía cửa sổ. “Gần đây, Jon kiếm thêm thu nhập bằng cách làm ở nhà hàng đó.”
“Làm gì cơ?”. Người đàn ông hỏi, giọng có vẻ sốc.
“Anh ấy làm đầu bếp”.
“Jon ấy à?”. Giọng người phụ nữ cũng bối rối không kém. “Tôi... không nhận ra...”.
Đôi vợ chồng này có vẻ biết rất rõ Jon. “Chồng tôi là một người đàn ông đầy tài năng”. Maryellen ngập ngừng, gần như sợ hãi không dám hỏi liệu có phải họ là cha mẹ của Jon không, cô không biết chắc điều gì sẽ xảy ra nếu những gì cô đang ngờ vực là đúng.
“Tôi...”. Người phụ nữ chợt sững lại rồi che miệng ngay lập tức.
Maryellen để ý thấy người đàn ông ôm vợ rất chặt. Hình như ông đang cảnh báo vợ rằng bà đã nói quá nhiều.
“Jon là một đầu bếp rất sáng tạo. Nếu anh ấy chọn lĩnh vực đó, chắc chắn anh ấy cũng sẽ thành danh”. Maryellen biết là cô đang nói huyên thuyên, nhưng cô cốt làm thế là để che giấu sự hồi hộp.
“Thật tuyệt vời”.
“Tôi có thể mời ông bà xem gì khác không?”. Maryellen hỏi. “Trong triển lãm này còn có tác phẩm của một số nghệ sĩ tài ba khác của địa phương đấy ạ.”
“Chúng tôi tới đây chỉ để xem những tác phẩm của Jon”, người đàn ông vừa nói vừa bắt đầu hướng ra phía cửa. “Cảm ơn sự giúp đỡ của cô.”
“Cô nói Jon là chồng cô à?”. Người phụ nữ có vẻ chưa muốn rời khỏi đây.
“Chúng ta cần đi khỏi đây”. Chống bà ta giục.
“Chỉ một phút thôi anh yêu”.
Maryellen chăm chú theo dõi họ, cô thắc mắc về sự im lặng đột ngột giữa đôi vợ chồng già. Rõ ràng là người phụ nữ còn nhiều câu hỏi nhưng người, đàn ông cương quyết bước đi.
“Cô có con không?”, người phụ nữ hỏi.
Maryellen gật đầu. “Một đứa con gái tên là Katie”.
Người phụ nữ đặt tay lên trái tim. “Tôi chắc đó phải là một cô bé đáng yêu lắm”.
“Ôi, vâng. Nhìn qua thì trông nó giống những người trong gia đình tôi hơn, nhưng nó mang tính cách của Jon”. Maryellen nhẹ nhàng thử. Rõ ràng là người phụ nữ rất tò mò. “Tôi nghĩ Katie có con mắt nghệ thuật của cha nó, nhưng chỉ có thời gian mới trả lời được điều đó”.
“Marion”.
Người phụ nữ gật đầu. “Chúng tôi phải đi đây. Cảm ơn cô rất nhiều...”. Maryellen gật đầu và quay trở lại bàn ngay khi cặp vợ chồng rời đi. Một lát sau cô chợt nhận ra tên của người phụ nữ - Marion. Cái tên đó, cùng với những câu hỏi về Jon đã khiến cô tin rằng họ chính là bố mẹ của anh. Những cái tên mà cô đã viết trong lá thư ngay trước ngày cưới. Marion và Joseph Bowman. Cô đã đề nghị họ không trả lời thư của cô và họ đã thực hiện đúng theo những gì cô muốn. Thay vào đó, họ tới vịnh Cedar. Cô không thể tưởng tượng được Jon sẽ phản ứng thế nào nếu phát hiện ra việc cô đã làm.