Ở nơi đày ải - Phần 1

Ở nơi đày ải

ÔNG GIÀ XÊMIÔN, biệt hiệu là ông Lý Sự, và một thanh niên người Tácta không ai biết rõ tên, cùng ngồi với nhau cạnh đống lửa bên bờ sông; còn ba người chèo thuyền khác thì ngồi trong lều. Ông già Xêmiôn tuổi trạc sáu mươi, người xương xương, rụng hết cả , nhưng có đôi vai to bè bè và vẻ người trông còn khỏe mạnh, đang ngà ngà say; lẽ ra ông ta đã vào lều đi ngủ từ lâu, nhưng vì trong túi còn chai rượu hơn một lít nên ông sợ cánh trẻ nằm trong lều lại chấm mút tí rượu của ông. Anh thanh niên người Tácta đang bị ốm, anh ta dằn vặt đau đớn, mình quấn những tấm áo rách bươm, và luôn miệng kể rằng ở miền quê tỉnh Ximbiếc(1) của anh ta thật sung sướng, ở đấy anh ta còn để lại một người vợ trẻ đẹp, khôn ngoan. Anh ta trạc tuổi hai mươi lăm, không hơn, nhưng bây giờ qua ánh lửa bập bùng, gương mặt anh ta nhợt nhạt, ốm yếu trông chỉ như một cậu bé con.

- Tất nhiên là ở đây chẳng phải là thiên đường, - ông Lý Sự nói. - Mắt cậu cũng thấy đấy: sông nước, bến bờ trơ trụi, chung quanh toàn đất sét là đất sét, không còn gì khác nữa... Lễ Thánh qua lâu rồi, mà băng vẫn trôi trên sông, sáng nay lại còn có tuyết rơi nữa.

- Thật khổ! Thật khổ! - anh chàng Tácta kêu lên và đưa mắt nhìn quanh với vẻ sợ hãi.

Cách đấy chừng mười bước là dòng sông lạnh ngắt, đen sẫm, dòng sông đang rì rầm trôi đi, nước thúc vào bờ đất nham nhở và cuốn nhanh về phía biển xa xôi. Ngay sát bên bờ, trong bóng đêm hiện rõ hình chiếc sà lan mà những người lái đò gọi là cái “thuyền”. Trên bờ xa tít bên kia và những đám lửa khi tỏ khi mờ ngoằn ngoèo trườn đi như rắn bò: đó là người ta đang đốt cỏ khô tích trữ từ năm ngoái. Đằng sau những con rắn lửa ấy lại vẫn là màn đêm sẫm tối. Nghe rõ tiếng những tảng băng vụn va vào thành sà lan. Khí trời nằng nặng, ẩm ướt, lạnh buốt...

Anh chàng Tácta ngước mắt lên trời. Sao trên trời cũng nhiều như ở miền quê anh ta, chung quanh cũng một màn đêm đen như thế nhưng vẫn thấy có gì thiêu thiếu. Ở tỉnh Ximbiếc, những ngôi sao hoàn toàn không giống như thế và bầu trời cũng không như thế.

- Thật khổ! Thật khổ! - anh ta nhắc lại.

- Rồi sẽ quen tất! - ông Lý Sự nói rồi cười thành tiếng. - Bây giờ cậu còn trẻ người non dạ, miệng còn hơi sữa, cậu ngờ nghệch tưởng rằng trên đời này không có người nào bất hạnh hơn cậu, nhưng rồi sẽ đến lúc chính cậu sẽ phải nói rằng: cầu cho người nào cũng được sống như cậu. Cứ nhìn lão già này mà coi. Chừng một tuần nữa, nước rút bớt đi, ta đặt vào bến này một con phà thì lúc ấy cậu sẽ tha hồ mà đi chơi khắp vùng Xibiri, còn lão đây thì quanh đi quẩn lại cứ đi từ bờ này sang bờ kia thôi. hai mươi hai năm nay lão đi như vậy rồi. Mỗi ngày mỗi đêm. Con cá măng dưới nước còn lão thì trên mặt nước. Và thật là may phúc, lão chẳng cần gì sất. Cầu trời cho ai ai cũng được sống như lão đây.

Anh thanh niên người Tácta đặt thêm cành cây khô vào đống lửa, nằm sát đống lửa hơn và nói:

- Bố cháu yếu lắm rồi. Khi nào bố cháu chết thì mẹ và vợ cháu sẽ đến đây ở. Đã hứa thế rồi.

- Nhưng mà cậu cần có mẹ và vợ để làm gì kia chứ? - Ông Lý Sự hỏi. - Cậu nói nhảm, cậu bị ma quỷ nó ám rồi, đem mà quẳng nó đi. Cậu đừng nghe lời nói hiểm độc của nó. Đừng để nó làm gì thì làm. Ma quỷ nó có xúi bẩy cậu nghĩ đến vợ thì cậu cứ làm ngược lại: tôi không muốn. Ma quỷ nó có xúi bẩy cậu mong thoát cảnh tù tội, thì cậu cứ cưỡng lại nó: tôi không muốn. Không cần gì hết. Không có cái gì gọi là bố, là mẹ, là vợ, là tự do, không cần gì cả! Không cần gì hết! Này anh bạn trẻ, lão không phải là nông dân bần hàn đâu nhé, lão không thô bạo đâu, mà là con của người từ, hồi tự do ở Kurxkơ đi ra ngoài lúc nào cũng đóng bộ đường hoàng, thế mà bây giờ tự mình đẩy mình đến chỗ cùng cực như thế này, có thể nằm lăn ra đất ngủ, có thể bứt cỏ vào miệng nhai cơ đấy. Thế mà lão cũng chỉ cầu cho ai cũng được sống như lão. Lão chẳng cần gì hết, lão chẳng sợ ai hết, lão tự mình hiểu rằng, trên đời này không có người nào giàu có hơn, tự do hơn lão. Khi người ta mới đưa lão từ Nga đến đây, ngay từ ngày đầu tiên, lão đã tâm tâm niệm niệm rằng: mình chẳng cần một cái gì hết. Ma quỷ nó cứ xui lão nghĩ đến vợ con, gia đình, nghĩ đến cuộc sống tự do, nhưng lão nói với ma quỷ rằng: lão không cần gì sất. Lão cứ một mình làm theo ý muốn của mình, thế rồi cậu thấy đấy, lão sống rất thoải mái, chẳng phải than vãn điều gì. Nếu ai mà nhân nhượng ma quỷ, dù chỉ một lần nghe lời nó xui khiến, thì kẻ đó thế nào cũng lụn bại, không gì cứu vớt được: cứ như là bị lún xuống đầm lầy ngập đến tận đỉnh đầu rồi không thể nào chui lên được nữa. Không phải chỉ cánh nông phu khờ khạo như cậu mới lụn bại đâu, mà cả những người có học, dòng dõi quyền quý cũng bỏ phí một đời. Cách đây chừng 15 năm người ta đưa từ Nga đến đây một nhà quý tộc. Chẳng biết ông ta không chịu chia những gì cho anh em, rồi làm di chúc giả. Mọi người nói rằng ông ta cũng là con nhà hầu tước, bá tước hay có thể cũng chỉ là viên chức nhà nước thôi - ai mà biết được. Ông ta đến đây rồi thì việc đầu tiên là mua một ngôi nhà và một ít ruộng ở làng Mukhortinxkoê. Ông ta nói: “Tôi muốn sống bằng sức lao động của mình, bằng mồ hôi của mình, vì bây giờ tôi không còn là nhà quý tộc nữa, tôi chỉ là một người bị đày đến đây mà sinh sống”. Ừ thì đành phải thế, lão nói với ông ta rằng, cầu trời phù hộ cho ông, ông là chuyện ấy cũng tốt thôi. Dạo ấy ông ta còn trẻ trung, tất bật suốt ngày, tham công tiếc việc; ông ta tự tay mình cắt cỏ, có khi lại còn đánh cá, cưỡi ngựa đi xa ngoài sáu mươi cây số. Chỉ có một điều bất hạnh là: ngay trong năm đầu tiên, ông ta đã thường xuyên đi đến trạm bưu chính ở Gưrinô. Nhiều lần, ông ta đứng trên phà của tôi, thở dài nói: “Chậc, ông Xêmiôn này, không hiểu sao lâu quá rồi mà vẫn chưa thấy gia đình gửi tiền cho tôi!” Lão nói với ông ta: ông Vaxili Xerghêíts ạ, cần tiền mà làm gì. Có tiền phỏng có ích gì? Ông quẳng hết chuyện cũ đi, quên hết đi, cứ coi như chẳng có gì cả, coi như đó chỉ là giấc mơ thôi, rồi bắt đầu sống cách khác đi. Đừng nghe lời ma quỷ nó xui - ma quỷ nó không xui làm được việc gì tốt lành đâu, nó chỉ dúi đầu mình vào thòng lọng treo cổ thôi. Bây giờ thì ông muốn có tiền, ít lúc nữa, ông cứ thử chờ xem, ông lại muốn có cái khác, rồi sau đấy lại muốn nữa, muốn nữa. Nếu ông muốn tìm hạnh phúc cho mình thì điều trước tiên là đừng cầu mong cái gì hết. Đúng thế đấy... Nếu mà số phận giày vò cả tôi và ông cay đắng đến thế, thì chẳng cần phải xin xỏ gì số phận rủ lòng thương, chẳng việc gì phải quỳ gối trước nó, mà cần phải coi thường nó, giễu cợt nó. Nếu không thế thì chính nó sẽ cười cợt lại mình cho xem. Đấy, lão đã nói với ông ta như vậy... Hai năm sau, lão chở ông ta sang bờ bên này, ông ta xoa xoa tay cười ra vẻ khoái chí lắm. Ông ta nói: “Tôi đến Gưrinô đón vợ đây. Cô ta thương tôi mà đến với tôi đấy. Cô ta thật xinh đẹp và phúc hậu”. Ông ta sung sướng đến nghẹn thở. Thế rồi qua một ngày sau thì trở lại đây cùng với vợ. Vợ ông ta còn trẻ lắm, rất đẹp, đầu đội mũ, tay bế một đứa bé gái. Hành lý mang theo đủ mọi thứ. Còn ông Vaxili Xerghêíts thì cứ lăng xăng chạy quanh cô vợ, ngắm nghía cô ta, xuýt xoa tấm tắc khen mãi. Ông ta cứ luôn miệng nói: “Này, anh bạn Xêmiôn, thế ra ở cái xứ Xibiri này, người ta vẫn sống đường hoàng đấy chứ!” Lão thì nghĩ rằng, rồi xem có mừng thế được mãi không. Từ dạo ấy cứ tính từng tuần một, ông ta lại đi Gưrinô xem đã có tiền gửi từ Nga tới chưa. Tiền thì cần phải tiêu nhiều. Ông ta nói: “Vì tôi mà cô ta phải chôn vùi sắc đẹp và tuổi trẻ của mình ở cái xứ Xibiri này, chia sẻ cùng tôi số phận cay đắng, vì thế mà tôi cần phải làm cho cô ta thỏa mãn mọi điều...” Để làm vui lòng vợ, ông ta bắt quen với các viên chức nhà nước, với đủ loại người mạt hạng. Và tất nhiên là phải bỏ tiền ra cho cả cái bọn người ấy đánh chén, rồi lại còn phải chơi dương cầm và nuôi chó bông trên đivăng nữa, - tất cả chỉ cốt cho cô vợ khỏi mòn mỏi vì buồn bã... Nói tóm lại là đủ thứ chiều chuộng xa xỉ. Nhưng rồi cô vợ cũng chẳng ở đây lâu với ông ta. Đây đâu phải là chỗ để cô ta ở? Chung quanh là đồng không mông quạnh, là sông nước, không có một thứ rau cỏ, hoa quả gì cả, người thì rặt những loại nát rượu, vô học, chẳng có ai mà giao du, mà cô ta thì quen được chiều chuộng, lại là dân thủ đô... Thế tất phải là buồn chán thôi. Hơn nữa chồng cô ta chẳng phải là quý tộc nữa mà là dân đi đày - đối với cô ta điều ấy chẳng vinh dự gì. Lão còn nhớ, ba năm sau đó, vào một đêm trước gày lễ Mộng triệu Thăng thiên có người gọi bên kia sông. Lão đưa phà sang sông thì thấy cô ta đang đứng trên bờ, mình mặc áo dày ấm, cùng với một anh viên chức trẻ. Một cỗ xe ba ngựa nữa... Lão chở cả sang sông, hai anh chị ngồi lên - rồi quất ngựa đi. Gần sáng thì Vaxili Xerghêíts đi cỗ xe song mã đến. - “Này, Xêmiôn, ông có thấy vợ tôi đi qua đây cùng với một chàng đeo kính không?” Lão nói: “Có thấy, đi theo mà bắt gió trong đồng”. Ông ta đuổi theo tìm năm ngày đêm liền. Lần tôi chở ông ta về, ông ta nằm vật xuống sàn phà, đập đầu liên hồi xuống sàn, rên rỉ. Lão nói với ông ta: “Đấy, bây giờ ông thấy chưa”. Lão cười và nhắc lại câu của ông ta: “Thế ra ở cái xứ Xibiri này, người ta vẫn sống đường hoàng đấy chứ!” Ông ta thì chỉ càng đập đầu xuống sàn nhiều hơn... Sau đó ông ta chỉ mong sao thoát cảnh tù đày. Vợ trở về Nga, có nghĩa là ông ta cũng muốn trở về đấy để mà gặp vợ và lấy lại khỏi tay kẻ tình nhân. Thế đấy anh bạn trẻ ạ, cứ hầu như là ngày nào ông ta cũng cưỡi ngựa đi ra trạm bưu chính hay là vào thành phố gặp cấp trên. Ông ta gửi đơn từ xin ân xá đi khắp nơi mong được trở về nơi quê quán, ông ta nói rằng chỉ riêng tiền đánh điện không thôi ông ta đã tiêu mất hai trăm rúp. Ruộng vườn phải bán đi, nhà cửa phải cầm cố cho bọn Do Thái. Bản thân ông ta thì tóc bắt đầu bạc, lưng còng xuống, vẻ mặt vàng ệch trông như người bị bệnh lao. Nói chuyện với lão thì miệng cứ cười: khề-khề-khề... mà nước mắt thì cứ ứa ra. Mất công xin ân xá như thế ròng rã tám năm trời, bây giờ thì như người sống lại, trông vui vẻ lắm. Ông ta tìm được nguồn an ủi mới. Con gái ông ta lớn lên rồi mà. Con bé ngắm mãi cũng không chán. Quả thật là nó trông cũng kháu: vẻ mặt xinh xẻo, lông mày đen, tính nết khôn ngoan, nhanh nhẹn lắm. Chủ nhật nào ông ta cũng đưa con bé đi lễ nhà thờ ở Gưrinô. Hai cha con đứng cạnh nhau trên phà, cô bé cười, còn ông ta thì không rời mắt ngắm con. Ông ta nói: “Đây, Xêmiôn, anh thấy chưa, ở cái xứ Xibiri này người ta vẫn sống đường hoàng đấy chứ! Ở xứ Xibiri này cũng có thể có hạnh phúc. Anh thử nhìn xem, con gái tôi trông có tuyệt không. Anh cứ đi nghìn cây số cũng không kiếm được con bé nào xinh thế”. Lão nói: “Đúng rồi, con gái ông xinh thật...” Nhưng trong bụng thì lão nghĩ thầm: “Cứ chờ xem... Con bé lớn lên trẻ trung, bầu máu nóng nó bốc, nó muốn sống cho ra hồn, nhưng mà ở đây thì sống cái gì?” Anh bạn ta ạ, thế rồi con bé nó sinh sầu não thật đấy... Nó gầy mòn, đau ốm luôn, rồi cuối cùng bị liệt cả hai chân. Lại bị lao nữa. Đấy, cậu xem, hạnh phúc Xibiri là như thế, đem mà quẳng mẹ nó đi, “ở cái xứ Xibiri này người ta vẫn sống đường hoàng” là như thế... Ông ta lại bắt đầu đi tìm đến các bác sĩ, đón họ về nhà mình. Chỉ cứ vừa mới nghe, cách chừng hai, ba trăm vécxta có bác sĩ hay thầy lang nào là lại đi tìm ngay. Chẳng biết tốn đến bao nhiêu tiền cho các bác sĩ nữa, theo như lão đây thì cứ lấy số tiền ấy mà mua rượu uống là tốt hơn hết... Đằng nào mà con bé chẳng chết. Trước sau rồi con bé cũng chết và lúc ấy thì ông ta cũng khuỵu theo thôi. Nếu chẳng tự treo cổ vì buồn khổ thì cũng bỏ trốn về Nga - chuyện thế tất nó sẽ như vậy. Nhưng mà bỏ trốn thì người ta sẽ tóm được, rồi lại ra tòa, lại khổ sai, tha hồ mà nếm roi vọt...

___________

1. Hiện nay là Ulianốpxkơ.