Những đêm ở Rodanthe - Chương 09 - 10

CHƯƠNG 9

Dù đã có lớp cửa chớp cùng tấm rèm để ngắt bớt ánh nắng sớm, Paul vẫn thức dậy ngay lúc bình minh sáng thứ Sáu hôm ấy, và anh đã dành ra mười phút để co duỗi cơ thể cho tan cơn đau nhức.

Mở toang hai cánh cửa chớp, anh đón khung cảnh buổi sáng vào phòng. Một lớp sương mù dày phủ trên mặt nước, còn bầu trời mang một màu xám lạnh lẽo như đồng. Những đám mây tích đua nhau trôi thành hàng song song với bờ biển. Cơn bão sẽ tới trước khi đêm xuống, anh thầm nghĩ, có lẽ là vào giữa buổi chiều.

Anh ngồi trên mép giường để xỏ giày chạy, rồi khoác thêm một lớp áo gió bên ngoài. Anh lấy thêm một đôi găng từ ngăn kéo để xỏ vào tay rồi bước xuống cầu thang và nhìn quanh. Adrienne vẫn chưa dậy, khiến anh cảm thấy một nỗi thất vọng thoáng hiện trong lòng vì không được gặp nàng, rồi đột nhiên tự hỏi sao mình lại quá để tâm tới việc đó. Anh mở khóa cửa, và chỉ một phút sau đã chạy chầm chậm dọc theo bãi biển, để cho cơ thể ấm dần lên trước khi chuyển sang một nhịp chạy đều hơn.

Từ phòng mình, Adrienne nghe thấy tiếng kẽo kẹt khi anh bước xuống những bậc cấp. Ngồi dậy, nàng tung chăn và xỏ chân vào đôi dép di dtrong nhà, thầm ước giá như nàng đã kịp pha sẵn cho Paul một chút cà phê trước khi anh dậy. Không rõ liệu anh có muốn uống trước khi chạy không, nhưng ít ra đáng lẽ nàng đã có thể mời anh.

Ở bên ngoài, các khớp trên người Paul thả lỏng dần và anh tăng nhanh sải bước của mình. Tốc độ này không thể so sánh được với nhịp chạy của anh khi còn đôi ba mươi, nhưng cũng đều đặn và khiến thấy khỏe khoắn hơn.

Với anh việc chạy bộ chưa bao giờ chỉ đơn giản là tập thể dục. Anh đã chạy đến cái mức mà nó trở thành một việc không còn khó khăn chút nào, dường như việc chạy năm dặm liền không khiến anh tốn nhiều năng lượng hơn đọc một bài báo. Thay vào đó, anh coi đó là một cách tĩnh tâm, một trong những khoảng thời gian ít ỏi anh được ở một mình.

Hôm đó là một buổi sáng tuyệt vời để chạy. Dù đêm trước có mưa và anh có thể thấy những giọt nước trên cần gạt của xe ô tô, nhưng cơn mưa chắc hẳn chỉ tạt qua nơi này chóng vánh, vì mặt đường hầu như đã khô. Chỉ còn những cụm sương vương vất trước buổi bình minh và di chuyển với hành trình ma quái từ nóc nhà này tới nóc nhà khác. Ban đầu anh định chạy trên bờ biển vì không mấy khi có cơ hội, nhưng rồi anh quyết định dùng đường chạy của mình để tìm nhà Robert Torrelson. Anh chạy dọc theo đường cao tốc, băng qua khu trung tâm, rồi rẽ ở góc đường đầu tiên, thầm thu vào mắt mọi cảnh vật xung quanh.

Rodanthe hiện ra như trong hình dung của anh: một làng chài cổ xưa nằm sát mép nước, một nơi mà cuộc sống hiện đại vẫn chưa về tới. Mọi ngôi nhà đều được dựng bằng gỗ, và dù một số được tu sửa tốt hơn hẳn, với những khoảnh vườn nhỏ chăm chút cẩn thận và một luống đất mỏng nơi những búp cây sẽ nở vào mùa xuân, anh có thể thấy rõ sự hiện diện đầy khắc nghiệt của cuộc sống ven biển ở mọi nơi. Ngay cả những ngôi nhà chưa quá chục năm tuổi cũng đang bắt đầu mục nát. Các hàng rào và thùng thư có nhiều lỗ vì mưa gió ăn mòn, lớp sơn đã bong, mái nhà bằng thiếc điểm những vệt gỉ sét dài và rộng. Nằm rải rác trong các khoảnh vườn là nhiều loại đồ dùng hằng ngày khác nhau đặc trưng cho cuộc sống nơi đây: động cơ tàu thuyền nhỏ đã phỏ, những tấm lưới bắt cá chỉ còn được dùng để trang trí, dây thừng và xích để ngăn người lạ.

Một số ngôi nhà trông không khác gì túp lều, các bức tường mang một vẻ tạm bợ bấp bênh, như thể chỉ thêm một cơn gió mạnh nữa thôi là sẽ đổ sập ngay. Ở một số căn, mái hiên trước nhà đã nghiêng ngả và được chống tạm bằng đủ thứ đồ tận dụng để ngăn chúng không đổ sập hoàn toàn: những khối bê tông hay chồng gạch, những thanh gỗ hai nhân bốn thò từ dưới lên như những cây đũa ngắn.

Nhưng ở nơi này, mọi sinh hoạt vẫn diễn ra, ngay từ lúc mờ sáng, trong cả những ngôi nhà tưởng chừng đã bỏ hoang. Trong khi chạy, anh thấy khói bốc lên từ các ống khói và quan sát đàn ông và phụ nữ đang dùng ván gỗ để che chắn cửa sổ nhà mình. Tiếng búa đinh đã bắt đầu vang lên trong không gian.

Anh rẽ ở khu nhà tiếp theo, kiểm tra biển tên đường rồi chạy tiếp. Một vài phút sau, anh rẽ vào con phố nơi Robert Torrelson sống. Theo anh biết, ông ta sống ở số nhà ba mươi tư.

Anh chạy qua số nhà mười tám, rồi hai mươi, rồi bắt đầu ngước mắt lên nhìn phía trước. Một vài người hàng xóm dừng công việc của mình quay ra dõi nhìn anh bằng ánh mắt cảnh giác khi anh chạy qua. Một lát sau, anh đã đến nhà Robert Torrelson, liếc nhìn về phía đó, cố gắng không quá lộ liễu.

Đó là một ngôi nhà giống như hầu hết các ngôi nhà khác trên cùng dãy phố: không còn chỉn chu lắm, nhưng cũng không quá xập xệ. Đúng hơn, nó kẹp giữa hai tình trạng đó – một tình trạng hòa hoãn giữa con người và thiên nhiên trong cuộc chiến giành giật lấy ngôi nhà. Ít nhất là đã tồn tại nửa thế kỷ, ngôi nhà là một tòa kiến trúc một tầng, với mái thiếc; không có ống máng để chuyển hướng nước chảy, nước mưa của hàng ngàn cơn bão đã hằn những vệt xám lên lớp sơn nhà màu trắng. Trên hàng hiên là hai chiếc ghế bập bênh bạc phếch kê hướng vào nhau. Quanh các cửa sổ, anh thấy một dây đèn trang trí Giáng sinh giăng trơ trọi.

Nằm ở mặt sau của ngôi nhà là một gian nhà phụ nhỏ với cửa trước được mở chống lên. Bên trong có hai chiếc bàn thợ phủ đầy lưới, cần câu, rương hòm và dụng cụ. Hai mỏ neo lớn đặt dựa vào tường, và anh có thể thấy một chiếc áo mưa màu vàng treo trên mắc ngay bên trong. Từ phía sau chiếc áo, bóng một người đàn ông ló ra, tay cầm một chiếc xô.

Bóng người đó xuất hiện đột ngột anh không ngờ tới, thế là anh vội quay đi trước khi người đó thấy anh đang nhìn. Vẫn quá sớm cho cuộc gặp mặt, và anh cũng không muốn gặp trong bộ đồ chạy. Thay vào đó, anh ngẩng mặt lên hứng làn gió sớm, rẽ ở góc đường tiến theo, và cố gắng tìm lại nhịp chạy.

Việc đó không dễ chút nào. Hình ảnh người đàn ông nọ vẫn vương vất trong đầu anh, khiến anh thấy uể oải dần, mỗi bước chạy càng trở nên khó khăn hơn. Dù trời đang lạnh, khi kết thúc đường chạy của mình, mặt anh đã lấm tấm mồ hôi.

Anh đi bộ mấy chục bước cuối cùng về Nhà Nghỉ, để hai chân mình thư giãn dần. Từ trên đường, anh có thể thấy ánh đèn trong nhà bếp đã được bật.

Hiểu ý nghĩa của điều đó, anh mỉm cười.

Trong khi Paul ra ngoài, các con của Adrienne đã gọi điện, vậy là nàng nói chuyện với chúng vài phút, mừng rằng chúng đang vui vẻ bên bố. Một lát sau, ngay khi giờ làm việc vừa bắt đầu, nàng gọi điện cho viện điều dưỡng.

Dù cha nàng không thể nghe điện thoại, nàng đã sắp xếp để Gail, một cô y tá, trả lời thay ông, và cô ấy đã nhấc ống nghe sau hồi chuông thứ hai.

“Chị gọi thật đúng lúc,” Gail nói. “Tôi vừa nói với bố chị là chị sẽ gọi bất cứ lúc nào.”

“Hôm nay ông thế nào?”

“Ông hơi mệt, còn đâu thì vẫn ổn cả. Chị chờ một lát để tôi đặt ống nghe cạnh tai ông nhé?”

Một lát sau, khi nghe thấy tiếng thở nặng nhọc của cha mình, Adrienne nhắm mắt.

“Con chào bố,” nàng cất tiếng, và nàng bắt đầu trò chuyện với ông trong vài phút như thể đang ở ngay cạnh ông. Nàng kể với ông về Nhà Nghỉ và bờ biển, về những đám mây dông và sấm chớp, và dù nàng không nhắc tới Paul, nàng tự hỏi liệu cha nàng có nghe được vẻ xao động trong giọng nàng mỗi khi tránh nói đến tên anh như nàng đang cảm thấy hay không.

Paul bước lên bậc thềm nhà, ngửi thấy mùi thịt muối thơm ngào ngạt trong không khí, như thể đang chào mừng anh trở lại. Một lát sau, Adrienne bước ra qua cánh cửa nhà bếp.

Nàng mặc quần jean cùng một chiếc áo len màu xanh nhạt tiệp màu với mắt nàng. Trong ánh sáng sớm mai, chúng ngả sang màu xanh ngọc, nhắc anh nhớ đến các sắc màu trong suốt của bầu trời mùa xuân.

“Anh dậy sớm nhỉ?” nàng nói, vén một sợi tóc qua tai.

Paul cảm thấy cử chỉ ấy gợi cảm đến khác thường, và anh lau mồ hôi đọng trên lông mày. “Vâng, thường ngày tôi phải chạy xong rồi mới làm gì thì làm.”

“Anh thấy dễ chịu chứ?”

“Không được như mọi khi, nhưng ít nhất cũng xong rồi.” Anh chuyển trọng tâm từ chân nọ sang chân kia. “Nhân tiện, mùi trong này thơm quá.”

“Tôi bắt đầu làm bữa sáng trong khi anh ra ngoài.”” Nàng chỉ qua vai. “Anh muốn ăn ngay bây giờ hay chờ lát nữa?”

“Tôi muốn tắm trước đã, nếu được.”

“Được thôi. Đằng nào thì tôi cũng đang định nấu cháo yến mạch, mà món đó mất đến hai mươi phút. Anh thích món trứng làm thế nào?”

“Trứng chưng được không?”

“Tôi nghĩ tôi làm được.” Nàng dừng lại, thích thú vì vẻ thật thà trong cái nhìn của anh và kéo dài khoảnh khắc ấy thêm lát nữa. “Để tôi lấy thịt hun khói ra kẻo cháy mất,” cuối cùng nàng nói. “Gặp lại anh sau vài phút nữa nhé?”

“Hẳn rồi.”

Sau khi nhìn nàng quay đi, Paul leo lên cầu thang và phòng mình, vừa đi vừa lắc đầu thầm nghĩ trông nàng thật đáng yêu. Anh cởi quần áo, giặt qua chiếc áo trong bồn rồi treo nó lên khung rèm và mở vòi nước. Đúng như Adrienne đã báo trước, mất một lúc lâu nước nóng mới chảy ra.

Anh tắm rửa, cạo râu và mặc một chiếc quần âu Docker với áo có cổ, xỏ đôi giày lười rồi xuống với nàng. Trong bếp, Adrienne đã bày bàn xong và đang mang hai chiếc bát cuối cùng của bữa sáng lên bàn, một chiếc đựng bánh mì, chiếc kia đựng hoa quả thái lát. Khi Paul bước vòng qua nàng, anh ngửi thấy một thoáng hương dầu gội đầu mùi hoa nhài mà nàng dùng sáng hôm đó.

“Tôi hy vọng anh không thấy phiền khi tôi lại ngồi cùng,” nàng nói.

Paul kéo ghế ra cho nàng. “Không hề. Tôi đang mong thế là khác. Mời cô ngồi.” Anh ra hiệu cho nàng ngồi xuống.

Nàng để anh đẩy ghế cho mình, rồi nhìn anh cùng ngồi xuống. “Tôi đã định tranh thủ mua một tờ báo,” nàng nói, “nhưng lúc tôi đến thì quầy báo ở cửa hàng tạp hóa đã trống không.”

“Cũng phải thôi. Sáng nay có nhiều người ra ngoài lắm. Tôi đoán mọi người đều đang lo không biết hôm nay sẽ tệ đến mức nào.”

“Xem ra chẳng tệ hơn hôm qua là mấy.”

“Đấy là vì cô không sống ở đây thôi.”

“Anh cũng có sống ở đây đâu.”

“Vâng, nhưng trước đây tôi đã chứng kiến một cơn bão lớn rồi. Thực ra tôi đã bao giờ kể với cô về cái lần tôi còn học đại học và xuống tận Wilmington...”

Adrienne bật cười. “Vậy mà anh đã thề không bao giờ kể chuyện đó.”

“Chắc là do đã phá lệ một lần rồi thì những lần khác sẽ dễ nói hơn. Mà đó lại là câu chuyện thú vị duy nhất của tôi. Mọi chuyện khác đều rất chán.”

“Tôi không tin đâu. Từ những gì anh kể với tôi, tôi nghĩ của cuộc sống của anh còn lâu mới chán.”

Anh mỉm cười, không rõ câu nói của nàng có ý khen ngợi hay không, nhưng vẫn thấy hài lòng.

“Jean nói hôm nay phải làm những việc gì?”

Adrienne xúc một ít trứng rồi đẩy cái bát về phía anh.

“Ừm, phải mang đồ đạc ngoài hiên cất vào trong kho. Cửa sổ phải đóng và cài then cửa chớp từ bên trong. Rồi phải dựng cửa chống bão lên. Hình như chúng gắn liền với nhau và mình phải cài vài cái móc gì đấy vào để giữ cho đúng chỗ, rồi sau đó chống lên bằng gỗ hai nhân bốn. Gỗ ấy hình như cũng được cất cùng chỗ với cửa chống bão.”

“Hy vọng cô ấy có thang.”

“Nó cũng ở dưới hầm.”

“Nghe không tệ lắm. Nhưng như tôi đã nói hôm qua, tôi sẵn lòng giúp cô một tay sau khi về.”

Nàng nhìn anh. “Anh có chắc không? Anh không phải làm việc đó đâu.”

“Có phiền gì đâu. Dù sao tôi cũng không có dự định gì khác cả. Và thành thực mà nói, tôi không thể ngồi trong nhà trong khi cô làm tất cả mọi việc được. Tôi sẽ thấy áy náy dù là khách.”

“Cám ơn anh.”

“Không có gì.”

Họ chia phần thức ăn, rót cà phê và bắt đầu ăn. Paul quan sát nàng chăm chú phết bơ lên bánh mì. Trong ánh sáng bàng bạc của buổi sớm, trông nàng thật đẹp, còn đẹp hơn anh thấy ngày hôm trước.

“Anh sắp đi nói chuyện với cái người anh nhắc đến hôm qua à?”

Paul gật đầu. “Sau bữa sáng,” anh nói.

“Anh có vẻ không vui về việc đó.”

“Tôi cũng không biết có nên vui hay không nữa.”

“Tại sao?”

Sau một thoáng do dự, anh kể với nàng về Jill và Robert Torrelson – về cuộc phẫu thuật, cuộc khám nghiệm tử thi, và tất cả những gì đã xảy ra sau đó, bao gồm cả lời nhắn anh nhận được trong bức thư. Sau khi anh kể xong, Adrienne có vẻ đang nhìn anh dò xét.

“Và anh không biết ông ấy muốn gì?”

“Tôi đoán là chuyện về vụ kiện.”

Adrienne không nghĩ thế, nhưng nàng không nói gì. Thay vào đó, nàng với lấy cốc cà phê của mình.

“Chà, bất kể là chuyện gì, tôi nghĩ anh đã làm một việc đúng đắn. Cũng như việc anh đang làm với Mark.”

Anh không nói gì, nhưng cũng không cần phải nói. Việc nàng hiểu những điều anh làm đã là quá đủ rồi.

Những ngày gần đây, tất cả những gì anh muốn chỉ là có ai đó hiểu mình như vậy, và dù anh mới chỉ gặp nàng hôm trước, anh có cảm giác rằng bằng cách nào đó nàng đã biết anh rõ hơn hầu hết mọi người khác.

Hay có lẽ, anh thầm nghĩ, rõ hơn bất kỳ ai.

CHƯƠNG 10

Sau bữa sáng, Paul lên xe và sục tay vào túi áo khoác móc lấy chìa khóa. Đứng trên hiên, Adrienne vẫy chào như thể muốn chúc anh may mắn. Một lát sau, Paul nhìn qua vai và bắt đầu lùi xe ra khỏi lối xe chạy.

Chỉ mấy phút sau anh đã đến con phố nơi Torrelson sống. Dù có thể đi bộ, nhưng anh không biết thời tiết sẽ xấu đi nhanh thế nào, và anh không muốn bị dính mưa. Anh cũng không muốn cảm thấy bị kẹt lại nếu cuộc gặp mặt tiến triển xấu đi. Dù không rõ nên mong chờ điều gì, anh đã quyết định sẽ kể với ông Torrelson tất cả những gì đã xảy ra quanh cuộc phẫu thuật nhưng sẽ không suy diễn về nguyên nhân của cái chết.

Anh giảm tốc độ, đánh xe sang vệ đường và tắt máy. Sau khi chuẩn bị tinh thần trong giây lát, anh ra khỏi xe và bước đến lối vào nhà. Một người láng giềng đang đứng trên thang cầm búa đóng một mảnh ván lên cửa sổ, nhìn về phía Paul, cố gắng đoán xem anh là ai. Paul phớt lờ cái nhìn của người đó, và khi tới cửa nhà Torrelson, anh gõ cửa, rồi lùi lại, để cho mình một khoảng không gian.

Khi thấy không có ai ra mở cửa, anh gõ lần nữa, và lần này lắng nghe động tĩnh trong nhà. Không có gì. Anh bước sang cạnh hiên nhà. Dù các cánh cửa của gian nhà phụ vẫn mở, anh không nhìn thấy ai cả. Anh định cất tiếng gọi nhưng rồi lại thôi. Thay vào đó, anh bước tới mở cốp xe ra.

Anh lấy cây bút và xé một mảnh giấy từ cuốn sổ tay để trong hộp dụng cụ y tế.

Anh viết tên mình và nơi mình đang ở, cùng với một lời nhắn ngắn rằng anh sẽ ở lại thị trấn cho tới sáng thứ Ba nếu Robert muốn nói chuyện với anh. Sau đó, anh gập mảnh giấy lại, mang đến hiên trước rồi nhét vào khung cửa, để đảm bảo nó sẽ không bay mất. Trong lúc đang quay trở lại xe với cảm giác thất vọng xen lẫn nhẹ nhõm thì anh nghe thấy một giọng nói từ phía sau.

“Tôi giúp gì được cho ông?”

Khi Paul quay lại, anh không nhận ra người đàn ông đang đứng gần ngôi nhà. Dù không thể nhớ được Robert Torrelson trông như thế nào – khuôn mặt ông ta chỉ là một trong hàng ngàn khuôn mặt bình thường khác – anh biết rằng mình chưa bao giờ gặp người này trước dó. Anh ta là một thanh niên tầm ngoài ba mươi tuổi, trông hốc hác với mái tóc đen thưa mỏng, mặc áo nỉ và quần jean bảo hộ. Anh ta đang nhìn Paul chằm chằm với cùng vẻ cảnh giác như người hàng xóm khi nãy lúc anh mới đến.

Paul hắng giọng. “Vâng,” anh nói. “Tôi đang tìm Robert Torrelson. Đây có đúng là nhà ông ấy không?”

Người thanh niên gật đầu với vẻ mặt không thay đổi. “Phải, ông ấy sống ở đây. Ông ấy là bố tôi.”

“Ông ấy có nhà không?”

“Ông là người của ngân hàng à?”

Paul lắc đầu. “Không. Tên tôi là Paul Flanner.”

Mất một lúc người thanh niên mới nhận ra cái tên ấy. Anh ta nheo mắt.

“Ông là tay bác sĩ đó?”

Paul gật đầu. “Bố anh gửi thư cho tôi nói là muốn nói chuyện với tôi.”

“Để làm gì?”

“Tôi không biết.”

“Ông ấy chẳng nói với tôi về lá thư nào hết.” Trong khi nói, hai hàm răng của anh ta bắt đầu nghiến chặt.

“Anh có thể báo với ông ấy là có tôi đến được không?”

Người thanh niên móc ngón cái vào thắt lưng quần. “Ông ấy không có nhà.”

Trong khi nói câu đó, mắt anh ta đánh về phía ngôi nhà, vậy nên Paul tự hỏi anh ta có nói thật hay không.

“Vậy ít nhất anh có thể nói lại với ông ấy là tôi đã ghé qua được không? Tôi đã để lại một lời nhắn ở cửa cho ông ấy biết tôi ở đâu.”

“Ông ấy không muốn nói chuyện với ông đâu.”

Paul nhìn xuống, rồi lại ngước lên.

“Tôi nghĩ điều đó nên để ông ấy tự quyết định, anh thấy sao?” anh nói.

“Ông nghĩ ông là cái quái gì chứ? Ông nghĩ ông có thể đến đây và nói cho qua chuyện được ư? Như thể đó chỉ là một lỗi nhỏ hay sao?”

Paul không nói gì. Cảm nhận được sự do dự của anh, người đàn ông nọ bước tới một bước và tiếp tục cao giọng.

“Cút ngay khỏi đây đi! Tôi không muốn thấy ông lảng vảng quanh đây nữa, cả bố tôi cũng thế!”

“Được... được rồi...”

Cậu thanh niên với lấy chiếc xẻng ở gần đó, Paul liền giơ hai tay, lùi lại.

“Tôi đi đây...”

Ạnh quay đầu và bước trở lại xe.

“Và đừng có quay lại nữa,” anh ta hét với theo. “Ông nghĩ ông gây chuyện còn chưa đủ sao? Mẹ tôi đã chết là tại ông đấy!”

Paul khựng lại khi nghe những lời đó, cảm thấy nhói trong lòng, rồi bước vào xe. Sau khi khởi động xe, anh lái đi mà không nhìn lại.

Anh không trông thấy người hàng xóm bước từ thang xuống để nói chuyện với người thanh niên; anh không thấy anh ta ném cái xẻng đi. Anh không thấy tấm rèm phòng khách hạ xuống.

Anh cũng không thấy cửa trước mở ra lẫn bàn tay nhăn nheo cầm lấy mảnh giấy ghi lời nhắn đã rơi trên hàng hiên.

Lát sau, Adrienne ngồi nghe Paul kể lại chuyện đã xảy ra. Họ đang ngồi trong bếp, và Paul tựa mình vào quầy, hai tay đan lại với nhau trong khi ánh mắt nhìn ra cửa sổ. Vẻ mặt anh thất thần và phờ phạc; trông anh mệt mỏi hơn nhiều so với hồi sáng. Khi anh kể xong, vẻ mặt Adrienne hiện lên nỗi cảm thông xen lẫn lo lắng.

“Ít nhất anh đã cố gắng rồi,” nàng nói.

“Nhưng có được việc gì đâu?”

“Có lẽ anh ta không biết về lá thư của bố anh ta.”

Paul lắc đầu. “Không chỉ có chuyện đó. Phải nói lại về toàn bộ lý do tôi đến đây. Tôi muốn thử xem mình có thể sửa chữa được điều gì đó hay ít nhất là làm cho chuyện này hợp lý hơn không, nhưng tôi còn chẳng có cơ hội làm việc đó.”

“Đó không phải là lỗi của anh.”

Thế thì tại sao tôi cứ cảm thấy như vậy?”

Trong khoảng im lặng, Adrienne có thể nghe thấy tiếng kêu lách tách phát ra từ lò sưởi.

“Vì anh quan tâm. Vì anh đã thay đổi.”

“Chẳng có gì thay đổi cả. Họ vẫn nghĩ tôi đã giết bà ấy.” Anh thở dài. “Cô có thể tưởng tượng được cảm giác khi biết có người nghĩ như vậy về mình là thế nào không?”

“Không,” nàng thừa nhận. “Tôi không tưởng tượng được. Tôi chưa bao giờ phải trải qua chuyện gì như thế.”

Paul gật đầu mệt mỏi.

Adrienne quan sát xem vẻ mặt anh có thay đổi không, và khi nó không thay đổi, nàng ngạc nhiên thấy mình tiến lại gần, nắm lấy bàn tay anh. Ban đầu cảm giác hơi gượng gạo, nhưng rồi anh thả lỏng người và nàng cảm thấy các ngón tay anh nắm lại bao lấy tay nàng.

“Dù chuyện khó chấp nhận, và bất kể ai nói thế nào,” nàng thận trong nói, “anh phải hiểu rằng dù sáng nay anh có nói chuyện với người bố, thì có lẽ anh cũng không thay đổi được suy nghĩ của người con trai đâu. Anh ta đang đau khổ, và sẽ dễ dàng cho anh ta khi đổ tội cho một người như anh hơn là phải chấp nhận rằng mẹ mình đã đến lúc ra đi. Và dù anh nghĩ chuyện thành ra thế nào, thì sáng nay, bằng cách đến đó, anh đã làm được một việc quan trọng.”

“Là gì vậy?”

“Anh đã nghe những gì người con trai muốn nói. Dù anh ta sai, anh đã cho anh ta cơ hội cho anh biết cảm giác của anh ta. Anh đã để anh ta trút được nó ra khỏi ngực, và cuối cùng, đó có lẽ là điều người cha muốn ngay từ đầu. Vì ông ấy biết vụ kiện sẽ không bao giờ ra tòa được, ông ấy muốn anh chính tai nghe câu chuyện từ phía ông ấy. Để biết họ cảm thấy thế nào.”

Paul cười ủ dột. “Điều đó làm tôi thấy khá hơn nhiều đấy.”

Adrienne nắm chặt tay anh. “Anh mong đợi điều gì sẽ xảy ra nào? Rằng họ sẽ nghe anh nói và chấp nhận nó chỉ sau vài phút ư? Sau khi họ đã thuê hẳn một luật sư theo đuổi vụ kiện, dù họ biết là họ không có cơ hội? Sau khi nghe các bác sĩ khác nói? Họ muốn anh đến để anh có thể nghe họ nói. Chứ không phải là ngược lại.”

Paul không nói gì, nhưng trong thâm tâm anh biết nàng nói đúng. Nhưng vì sao, anh không nhận ra điều đó từ trước?

“Tôi biết là những lời đó khó nghe,” nàng nói tiếp, “và biết là họ đã sai và không công bằng khi kết tội anh vì chuyện đã xảy ra. Nhưng hôm nay anh đã cho họ một thứ quan trọng, và hơn thế, đó là việc anh không nhất thiết phải làm. Anh có thể tự hào về việc đó.”

“Cô không lấy gì làm ngạc nhiên, phải không?”

“Không hẳn.”

“Cô đã biết việc sẽ xảy ra như vậy từ sáng nay rồi phải không? Khi tôi mới kể cho cô nghe về họ?”

“Tôi không dám chắc, nhưng tôi nghĩ có thể sẽ thành ra thế này.”

Một nụ cười thoáng hiện trên mặt anh. “Ở cô có một điều gì đó, cô biết không?”

“Điều tốt hay điều xấu vậy?”

Anh nắm tay nàng, thầm thích cảm giác của bàn tay ấy trong tay anh. Cảm giác thật tự nhiên, như thể anh đã nắm bao nhiêu năm nay vậy.

“Một điều tuyệt vời,” anh nói.

Anh quay nhìn nàng và mỉm cười dịu dàng và Adrienne đột nhiên nhận ra anh đang định hôn mình. Dù một phần trong nàng cũng chỉ mong điều đó, song phần lý trí trong nàng đột nhiên nhắc nàng rằng hôm nay là thứ Sáu. Họ mới gặp nhau hôm trước, và anh sẽ sớm rời đi. Cả nàng cũng vậy. Hơn nữa, đây không hẳn là nàng. Đây không hẳn là Adrienne thật – người mẹ và người con luôn lo lắng, hay người vợ vừa bị bỏ rơi vì một người đàn bà khác, hay cô thủ thư ở thư viện. Cuối tuần này nàng là một người khác, một người nàng hầu như không nhận ra. Thời gian nàng ở đây chỉ như một giấc mơ, và dù giấc mơ có dễ chịu, thì nàng tự nhắc nhở mình rằng chúng cũng chỉ là mơ mà thôi.

Nàng bước lùi lại một bước. Khi thả tay anh ra, nàng thấy một tia thất vọng trong mắt anh, nhưng nó biến mất ngay khi anh quay đi.

Nàng mỉm cười, cố bắt mình nói bằng giọng bình thường.

“Anh vẫn còn định giúp tôi chuẩn bị nhà cửa đấy chứ? Trước khi cơn bão đến ấy?”

“Có chứ,” Paul gật đầu. “Để tôi thay sang đồ bảo hộ đã nhé.”

“Anh cứ thong thả. Đằng nào tôi cũng phải chạy ra cửa hàng đã. Tôi quên không mua thùng lạnh để trữ thức ăn phòng khi mất điện.”

“Được rồi.”

Nàng ngập ngừng. “Anh ổn chứ?”

“Tôi ổn thôi.”

Nàng đợi thêm một lát như thể để chắc chắn rằng nàng tin lời anh, rồi quay đi. Phải, nàng tự nhủ, nàng đã làm một việc đúng đắn. Nàng đã đúng khi quay đi, khi thả tay anh ra.

Thế nhưng khi ra khỏi cửa, nàng vẫn không thể thoát được cảm giác rằng nàng vừa chối bỏ cơ hội để tìm lại mảnh hạnh phúc mà nàng đã khuyết quá lâu.

Khi nghe thấy tiếng Adrienne nổ máy, Paul đang ở trên gác. Quay ra cửa sổ, anh thấy những đợt sóng đang đổ vào bờ, và cố gắng lý giải điều vừa xảy ra. Một vài phút trước, khi nhìn vào mắt nàng, anh đã thấy ánh lên một điều gì đặc biệt, nhưng nó cũng biến mất nhanh như khi xuất hiện, và vẻ mặt của nàng đã cho anh biết vì sao.

Anh có thể hiểu được sự e ngại của Adrienne – họ đều sống trong một thế giới bị giới hạn, những ràng buộc không phải lúc nào cũng cho phép những rung động cảm tính, những mong muốn nhất thời. Anh biết những giới hạn đó đã đặt ra trật tự cho cuộc sống của mỗi người, nhưng những gì anh đã làm trong mấy tháng gần đây chính là một nỗ lực để chống lại những giới hạn đó, để chối bỏ cái trật tự mà anh đã tuân theo quá lâu.

Sẽ thật không công bằng nếu anh cũng mong nàng làm như vậy. Nàng ở một vị trí khác, cuộc sống của nàng gánh đầy trách nhiệm, và như nàng đã nói rõ với anh ngày hôm qua, những trách nhiệm đó đòi hỏi sự ổn định và cân bằng. Anh đã từng như vậy, và dù giờ đây vị trí của anh cho phép anh sống với những quy tắc khác, anh nhận ra rằng Adrienne không thể như vậy được.

Tuy thế, điều gì đó đã thay đổi trong khoảng thời gian ngắn ngủi anh ở đây. Anh không rõ điều đó đã xảy ra từ khi nào. Có thể là hôm qua khi họ cùng đi dạo trên bờ biển, hoặc khi nàng kể với anh về cha nàng, hoặc là sáng nay khi họ cùng ăn trong ánh sáng dịu dàng của căn bếp. Hoặc có lẽ nó mới xảy ra khi anh thấy mình đang nắm tay và đứng sát bên nàng, không mong muốn gì hơn là được nhẹ nhàng áp môi mình vào môi nàng.

Khi nào cũng không quan trọng. Anh chỉ biết chắc một điều là anh đã bắt đầu phải lòng một người phụ nữ tên là Adrienne, người đang trông coi Nhà Nghỉ cho một người bạn trong một thị trấn ven biển nhỏ bé ở Bắc Carolina.

Hãy để lại chút cảm nghĩ khi đọc xong truyện để tác giả và nhóm dịch có động lực hơn bạn nhé <3