Những đêm ở Rodanthe - Chương 11

CHƯƠNG 11

Robert Torrelson ngồi bên chiếc bàn có nắp cũ kỹ trong phòng khách, nghe tiếng con trai đang đóng ván các ô cửa sổ sau nhà. Trong tay ông là mảnh giấy ghi lời nhắn của Paul Flanner, và ông cứ hết mở ra rồi gập lại trong vô thức, vẫn chưa hết thắc mắc về việc anh ta thực sự đã đến.

Ông không trông đợi anh đến. Dù đã viết thư yêu cầu được gặp, ông vẫn tin chắc rằng Paul Flanner sẽ lờ nó đi. Flanner là một bác sĩ nhiều thế lực trong thành phố, được những luật sư bảnh bao nhẵn nhụi đại diện cho mình,và chẳng một ai trong số họ quan tâm đến ông hay gia đình ông trong suốt một năm qua. Bọn giàu có ở thành phố đều thế cả; và riêng ông, ông mừng là mình không bao giờ phải sống gần những kẻ sống bằng nghề bàn giấy đó, những kẻ mà chỉ nhiệt độ trong phòng không ở đúng hai mươi hai độ là đã thấy khó chịu. Ông cũng không thích dính dáng đến những kẻ nghĩ mình ở trên người khác chỉ vì mình được học hành đàng hoàng hơn hay có nhiều tiền hơn hay có ngôi nhà lớn hơn. Paul Flanner, khi ông mới gặp ở cuộc phẫu thuật, đã gây cho ông ấn tượng rằng anh ta thuộc loại người đó. Trông anh ta khô khan và khó gần, và dù tự anh ta có giải thích, cách nói nhát gừng của anh ta khiến Robert có cảm giác rằng anh ta sẽ chẳng hề mất ngủ tới một phút vì những gì đã xảy ra.

Nhưng hóa ra không phải vậy.

Robert đã sống một cuộc đời với những giá trị khác, những giá trị đã được bao đời cha ông của ông trân trọng gìn giữ. Ông có thể lần ngược lại nguồn gốc gia đình mình ở Outer Banks đến gần hai trăm năm. Thế hệ này sang thế hệ khác, họ đã đánh cá trên vùng biển Pamlico Sound từ thời mà cá còn nhiều đến độ chỉ quăng lưới một lần là bắt được đầy khoang thuyền. Nhưng mọi thứ đã thay đổi. Nào là những hạn ngạch cùng quy định rồi giấy phép, rồi cả những công ty lớn, tất cả đuổi theo một lượng cá đã trở nên ít hơn bao giờ hết. Ngày nay, mỗi lần Robert xuống thuyền, chỉ cần bắt được đủ cá để trả tiền xăng ông đã xem là may mắn.

Robert Torrelson sáu mươi bảy tuổi nhưng trông già hơn thế đến mười tuổi. Gương mặt đen sạm vì mưa nắng, còn cơ thể ông đã dần dần thất thế trong cuộc chiến với thời gian. Có một vệt sẹo dài chạy từ mắt trái đến tai ông. Hay tay ông đau nhức vì chứng viêm khớp, còn ngón đeo nhẫn của bàn tay phải thì đã bị mất trong một lần mắc vào bánh tời khi kéo lưới.

Nhưng Jill chưa bao giờ để tâm đến những điều đó. Vậy mà giờ Jill đã ra đi.

Trên bàn là bức ảnh của bà ấy, và Robert vẫn thấy mình đang ngắm nhìn nó không chớp mỗi lần ngồi một mình trong phòng. Ông nhớ tất cả mọi điều về bà, ông nhớ cách bà xoa vai cho ông sau khi ông trở về vào những buổi tối mùa đông giá lạnh, ông nhớ cách họ thường ngồi bên nhau ngoài hiên sau và nghe nhạc trên đài, nhớ mùi hương khi bà thoa phấn lên ngực, một mùi hương giản dị và tinh khiết, tươi mới như một đứa trẻ sơ sinh.

Paul Flanner đã tước đi của ông tất cả những thứ đó. Ông biết, Jill sẽ vẫn còn sống bên ông nếu bà không đến bệnh viện vào ngày hôm ấy.

Con trai ông đã được nói suy nghĩ trong lòng nó. Giờ đến lượt ông làm việc đó.

* * *

Adrienne lái xe vào thị trấn cách đó không xa và tạt vào bãi đỗ xe rải sỏi của một cửa hàng bách hóa, nàng khẽ thở phào nhẹ nhõm khi thấy nó vẫn còn mở cửa.

Có ba chiếc xe đang đỗ lộn xộn ngoài cửa, chiếc nào cũng phủ một lớp muối mỏng. Hai người đàn ông có tuổi đội mũ bóng chày đang đứng ngoài cửa hàng, vừa hút thuốc vừa uống cà phê. Họ ngừng nói chuyện nhìn Adrienne ra khỏi xe và gật đầu chào khi nàng bước qua họ để vào cửa hàng.

Cửa hàng này đặc trưng như những cửa hàng ở vùng nông thôn: một sàn nhà lát gỗ sứt sẹo, quạt trần, giá kệ chất hàng ngàn thứ hàng hóa khác nhau. Gần quầy thu ngân là một thùng gỗ bày bán dưa muối; cạnh đó là một thùng khác đựng đậu phộng rang. Phía cuối cửa hàng là một chiếc vỉ nhỏ bày bánh kẹp thịt mới làm và sandwich cá, và dù không có ai đứng sau quầy thu tiền, mùi chiên rán vẫn vương vất trong không khí.

Máy làm đá ở tận góc cuối của cửa hàng, cạnh tủ lạnh đựng bia và soda, Adrienne liền tiến về phía đó. Khi với lấy tay nắm của chiếc máy làm đá, nàng bắt gặp một thoáng hình ảnh phản chiếu của mình trên cánh cửa gương. Nàng dừng lại một khoảnh khắc, như thể thấy chính mình qua một đôi mắt khác.

Nàng tự hỏi đã bao lâu rồi mới có ai đó thấy nàng hấp dẫn? Hay một người nàng vừa gặp lại muốn hôn nàng? Nếu có ai hỏi nàng những câu đó trước khi đến đây, nàng sẽ trả lời rằng không một điều nào như thế xảy ra kể từ ngày Jack bỏ đi. Nhưng cả điều đó cũng không hẳn là đúng. Không phải theo nghĩa này. Jack là chồng nàng chứ không phải người xa lạ, và vì họ đã hẹn hò hai năm trước khi cùng bước vào nhà thờ, nên phải nói là đã gần hai mươi ba năm rồi nàng mới gặp một chuyện như hôm nay.

Tấtt nhiên, nếu như Jack không bỏ đi, nàng đã sống với nhận thức đó mà không buồn nghĩ về nó đến lần thứ hai; nhưng lúc này và ở đây, nàng thấy điều đó là không thể. Nàng đã để quá nửa cuộc đời mình trôi qua mà không hề để ý đến sự hấp dẫn của một người đàn ông nào, và dù muốn tự thuyết phục đến đâu đi nữa rằng những lý do khiến nàng sống thu mình là vì những điều hiển nhiên, nàng không thể không nghĩ rằng hai mươi ba năm thiếu cảm giác cũng góp một phần nào đó.

Nàng bị Paul thu hút, nàng không thể phủ nhận điều đó. Không phải chỉ vì anh điển trai và thú vị, hay thậm chí là ngầm quyến rũ theo cách riêng của mình. Cũng không phải chỉ vì anh khiến nàng cảm thấy mình hấp dẫn. Không, mà chính mong muốn được thay đổi rất thành thật của anh – được trở thành một người tốt hơn trước đây – là điều khiến nàng thấy thu hút nhất. Nàng đã biết những người như anh trong đời mình – những bác sĩ, luật sư khét tiếng là ham công tiếc việc – nhưng nàng chưa từng gặp ai không chỉ quyết định thay đổi những quy tắc mà mình luôn sống dựa vào, mà còn làm việc đó theo một cách mà hầu hết mọi người sẽ e sợ.

Nàng tin rằng có chút gì đó thật cao cả trong việc làm của anh. Anh muốn sửa chữa những khiếm khuyết anh nhận thấy trong bản thân mình, anh muốn hàn gắn mối quan hệ với người con trai xa cách, anh đã đến tận đây vì lá thư yêu cầu của một người lạ đang đòi anh bồi thường.

Loại người nào có thể làm những việc đó? Người ta phải cần bao nhiêu nghị lực hay lòng dũng cảm để làm việc đó? Nàng nghĩ rằng sẽ nhiều hơn nàng có. Nhiều hơn bất kỳ ai nàng đã biết, và dù muốn phủ nhận, nàng thấy mình được tâng bốc khi một người như anh thấy nàng hấp dẫn.

Vừa ngẫm nghĩ, Adrienne vừa lấy hai túi đá còn sót lại với một thùng ướp lạnh và mang tất cả đến quầy tính tiền. Trả tiền xong, nàng rời cửa hàng để ra xe. Một trong hai ông già vẫn đang ngồi ngoài hiên khi nàng đi ra, vậy là nàng gật đầu với ông, với vẻ mặt kỳ cục như thể vừa dự cả đám cưới lẫn đám ma trong cùng một ngày.

Chỉ loáng cái từ lúc nàng vào trong đó, bầu trời đã tối đi nhiều, gió thốc tới nàng trên đường ra xe. Giờ gió đã bắt đầu rít lên từng hồi quanh Nhà Nghỉ, nghe như tiếng gào thét của ma quỷ, một ống sáo vô hình chỉ thổi một nốt duy nhất. Mây cuộn lại với nhau thành những khối nặng nề trôi trên đầu. Mặt biển đầy những ngọn sóng bạc trắng, và những cơn sóng đang lăn nặng nề qua mức nước lên của ngày hôm qua.

Khi với tay lấy đá trong xe, Adrienne thấy Paul bước ra từ sau cánh cổng.

“Anh đã bắt đầu công việc một mình rồi à?” nàng gọi.

“Không hẳn. Tôi chỉ xem tôi có tìm thấy mọi thứ mình cần hay không.” Anh chỉ đống đồ. “Cô có cần tôi mang giúp không?”

Adrienne lắc đầu. “Tôi mang được. Cũng không nặng lắm.” Nàng hất đầu về phía cửa. “Nhưng phải bắt đầu từ trong nhà. Anh không phiền nếu tôi vào phòng anh để đóng cửa chớp chứ?”

“Không, cô cứ tự nhiên. Tôi không phiền gì đâu.”

Vào trong nhà, Adrienne đặt chiếc thùng ướp lạnh cạnh tủ lạnh, lấy dao cắt túi đá đổ vào thùng. Nàng lôi ra một ít pho mát, hoa quả còn lại từ bữa sáng, và thịt gà từ tối hôm trước, bỏ tất cả vào thùng đá, nghĩ rằng chỗ đó không thịnh soạn cho lắm nhưng cũng đủ dùng nếu không còn gì khác. Rồi khi thấy vẫn còn chỗ, nàng lấy một chai rượu đặt lên trên cùng, cảm thấy một niềm phấn khích vụng trộm nổi lên khi nghĩ đến việc chút nữa sẽ uống rượu với Paul.

Gạt cảm giác ấy đi, nàng dành vài phút ở tầng trệt để đóng chặt các cửa sổ và cài chốt cửa chớp từ bên trong. Khi lên gác, nàng lo cho các phòng còn trống trước, rồi tiến về phòng của anh.

Sau khi mở cửa, nàng bước vào và nhận thấy Paul đã tự dọn giường. Hai chiếc túi của anh được gấp gọn trong tủ ngăn kéo, quần áo anh mặc sáng hôm đó đã được cất đi, và đôi giày lười xếp cạnh chân tường với mũi giày hướng ra ngoài. Nàng thầm nghĩ, các con nàng nên học tập anh về các giữ gìn phòng ở gọn gàng.

Trong phòng tắm, nàng đóng ô cửa sổ nhỏ, vừa làm vừa dò xét đĩa đựng xà phòng và chiếc bàn chải anh dùng để tạo bọt nằm cạnh dao cạo. Cả hai đều gần bồn rửa, cạnh một chai nước cạo râu. Đột nhiên, hình ảnh anh đứng bên bồn rửa sáng hôm đó hiện lên trong óc nàng, và khi tưởng tượng cảnh đó, một bản năng nào đó nói với nàng rằng anh muốn có nàng ở bên.

Nàng bắt đầu, cảm thấy kỳ quặc như một cô con gái mới lớn đang nhìn trộm phòng ngủ của bố mẹ, và vội tiến về cửa sổ cạnh giường. Khi đóng cửa sổ, nàng thấy Paul đang mang một chiếc ghế bập bênh từ mái hiên cất xuống dưới hầm.

Anh vận động như một người trẻ hơn đến hai mươi tuổi. Jack không được như thế. Qua thời gian, thân hình của Jack đã trở nên nặng nề, hậu quả của quá nhiều bữa tiệc đứng, vậy nên mỗi khi phải động đến một việc tay chân nào đó, bụng anh ta lại như muốn rung lên.

Nhưng Paul thì khác. Nàng biết rằng Paul khác hẳn với Jack ở mọi phương diện, và chính tại nơi đó, trong khi đứng trên phòng anh, Adrienne lần đầu tiên lờ mờ cảm nhận một nỗi mong đợi đầy hồi hộp, gần giống như cảm giác của một con bạc khi mong đợi vòng lăn may mắn của viên xúc xắc.

Dưới nhà, Paul đã chuẩn bị sẵn sàng mọi thứ.

Cửa chống bão làm bằng nhôm xếp nếp, rộng bảy mươi phân, cao mét tám, và tất cả đã được đánh dấu rõ ràng cái nào dùng để bảo hộ cửa sổ nào trong nhà. Paul bắt đầu dỡ chúng ra khỏi giá và đặt ở một bên, rồi xếp từng nhóm lại với nhau, thầm vạch ra trong đầu những việc cần làm.

Anh làm gần xong thì Adrienne trở xuống. Tiếng sấm vang lên từ đằng xa và rền lên từng hồi dài trầm đục trên mặt nước. Nàng nhận thấy nhiệt độ đã bắt đầu giảm. “Mọi việc thế nào rồi?” nàng hỏi, tự thấy giọng mình thật xa lạ, như một người khác đang nói.

“Dễ hơn tôi nghĩ,” anh nói. “Chỉ việc khớp các rãnh lại với nhau rồi đặt vào thanh nối, rồi lắp kẹp lại.”

“Vậy còn ván gỗ để cố định?”

“Cũng không khó lắm. Các khớp nối đã sẵn sàng rồi, nên tôi chỉ cần đặt gỗ hai nhân bốn vào giá đỡ và đóng vài cái đinh là xong. Đúng như Jean đã nói, một người làm cũng được.”

“Anh nghĩ có mất thời gian không?”

“Có lẽ khoảng một tiếng. Cô có thể đợi trong nhà nếu muốn.”

“Không có việc gì tôi giúp được sao?”

“Có việc gì đâu. Nhưng nếu cô thích, cô có thể ở lại với tôi cho vui.”

Adrienne mỉm cười, thích giọng mời mọc của anh. “Chắc chắn là vậy rồi.”

Trong hơn một tiếng đồng hồ sau đó, Paul di chuyển từ cửa sổ này đến sửa sổ khác, đặt cửa chống bão vào đúng chỗ trong khi Adrienne đứng cùng với anh. Trong khi làm việc, anh có thể thấy ánh mắt Adrienne dõi theo mình, và lại cảm thấy đúng cảm giác ngượng ngập sau khi nàng thả tay anh ra sáng hôm đó.

Vài phút sau mưa bắt đầu lất phất, rồi trở nên nặng hạt hơn. Adrienne bước lại gần ngôi nhà hơn để tránh bị ướt, nhưng nàng thấy cũng không ích gì lắm vì gió thổi tạt. Paul vẫn giữ nguyên nhịp làm việc, không nhanh hơn hay chậm đi, mưa và gió dường như không ảnh hưởng gì đến anh.

Từng cửa sổ một lần lượt được che chắn. Đặt cửa chống bão, đóng móc cài, chuyển thang. Vào lúc các cánh cửa đã đóng xong và Paul bắt đầu chuyển sang lắp các thanh nối, chớp đã lóe khắp mặt nước và mưa trút xuống rất to. Nhưng Paul vẫn làm việc bình thường. Mỗi chiếc đinh là bốn nhát búa đều đặn, như thể anh đã làm nghề mộc nhiều năm rồi vậy.

Bất chấp cơn mưa, họ vẫn trò chuyện. Adrienne nhận thấy anh cố gắng giữ cuộc nói chuyện diễn ra nhẹ nhàng, tránh nhắc đến bất kỳ điều gì có thể dẫn nó đi chệch hướng. Anh kể với nàng về một vài việc sửa chữa anh và cha mình đã làm ở nông trại, và rằng có thể anh sẽ làm những việc đó ở Ecuador nữa, nên việc lấy lại cảm giác cũng là một điều tốt.

Trong khi Adrienne nghe anh nói về chuyện này chuyện khác, nàng có thể thấy rằng Paul đang cho nàng khoảng cách mà anh nghĩ là nàng cần, điều mà anh nghĩ là nàng muốn. Nhưng trong khi quan sát anh, nàng đột nhiên nhận ra rằng giữ khoảng cách không hề là điều nằm trong tâm trí nàng.

Mọi điều về anh đều khiến nàng mong mỏi một điều gì đó nàng chưa từng biết: cách anh biến mọi việc mình làm thành có vẻ dễ dàng, hình dáng hông và chân anh trong chiếc quần jean khi anh đứng trên thang phía trên nàng, cặp mắt luôn phản ánh suy nghĩ và cảm giác của anh. Đứng đó dưới cơn mưa như trút, nàng cảm thấy sự cuốn hút của con người anh, và con người mà nàng muốn trở thành.

Đến khi xong việc, chiếc áo nỉ và áo khoác anh đang mặc đã ướt sũng còn khuôn mặt anh đã tái đi vì lạnh. Sau khi cất thang và dụng cụ xuống dưới hầm, anh bước lên với Adrienne trên mái hiên. Nàng đưa tay vuốt tóc xòa trên mặt. Những lượn sóng nhẹ trên tóc đã biến mất và cả lớp trang điểm trên mặt cũng vậy. Thay vào đó là một vẻ đẹp hoàn toàn tự nhiên, và dù nàng đang mặc một chiếc áo khoác dày, Paul vẫn cảm thấy cơ thể nữ tính ấm áp bên trong nó.

Chính vào lúc đó, khi họ đang đứng dưới mái hiên, là lúc cơn bão trút xuống toàn bộ cơn thịnh nộ. Một vệt chớp dài rạch ngang bầu trời, nối liền trời và biển, và tiếng sấm vang lên như hai chiếc xe vào nhau trên đường cao tốc. Gió giật từng cơn, uốn cái thân cây oằn về một hướng. Mưa tạt ngang như muốn chống lại trọng lực trái đất.

Họ cứ đứng nhìn một lúc, biết rằng đứng thêm một phút nữa trong mưa cũng không sao. Và rồi, cuối cùng cũng đầu hàng trước những gì có thể sắp xảy đến, họ quay trở vào nhà mà không nói một lời.

Hãy để lại chút cảm nghĩ khi đọc xong truyện để tác giả và nhóm dịch có động lực hơn bạn nhé <3