Những đêm ở Rodanthe - Chương 16 - Phần 02
CHƯƠNG 16 - PHẦN 2
Adrienne yêu dấu,
Sáng nay khi anh tỉnh dậy, em đã không còn ở bên anh nữa, và dù biết vì sao em dậy trước, anh vẫn ước giá em không làm vậy. Anh biết là anh ích kỷ, nhưng có lẽ đó là một trong những bản tính vẫn ở lại trong anh, một bản tính khó đổi suốt đời anh.
Nếu em đang đọc những dòng này, tức là anh đã đi rồi. Khi viết xong, anh sẽ xuống nhà và xin được ở với em lâu hơn nữa, nhưng anh không hề ảo tưởng gì về điều em sẽ nói với anh.
Đây không phải là lời chào từ biệt, và anh không muốn em nghĩ dù chỉ một phút rằng đó là lý do của lá thư này. Thay vì đó, anh sẽ xem một năm tới là cơ hội để được biết về em nhiều hơn anh đã biết. Anh đã nghe chuyện người ta yêu nhau qua thư, và dù chúng ta đã yêu nhau, cũng không có nghĩa là tình yêu của chúng ta không thể sâu sắc hơn nữa, phải không em? Anh muốn nghĩ rằng đó là điều có thể, và em biết không, thực lòng anh cho rằng ý nghĩ đó là điều duy nhất có thể giúp anh vượt qua một năm tới không có em.
Nếu nhắm mắt, anh có thể thấy em đang đi dạo trên bờ biển vào đêm đầu tiên chúng ta bên nhau. Trước ánh chớp sáng bừng khuôn mặt, trông em đẹp tuyệt vời, và anh nghĩ đó là một phần lý do khiến anh có thể mở lòng với em theo một cách mà anh chưa từng làm với bất kỳ ai khác. Nhưng không chỉ vẻ đẹp của em khiến anh rung động, mà là tất cả mọi thứ ở em – lòng can đảm và tận tụy của em, sự sáng suốt mà em dùng để nhìn thế giới này. Anh nghĩ anh đã cảm nhận được những điều đó ở em ngay lần đầu chúng ta uống cà phê với nhau, và nếu có gì khác, thì càng biết nhiều về em, anh càng nhận ra anh thiếu những điều đó trong đời anh như thế nào. Em là một người đáng quý, Adrienne ạ, và anh là người đàn ông may mắn được có cơ hội được biết em.
Anh hy vọng rằng em sẽ ổn. Khi viết lá thư này, anh biết rằng anh không ổn chút nào. Nói lời tạm biệt với em hôm nay là điều khó khăn nhất anh từng phải làm, và khi trở lại, anh có thể chân thành thề rằng anh sẽ không bao giờ làm việc đó một lần nào nữa. Anh yêu em lúc này vì những gì chúng ta đã chia sẻ với nhau, và anh yêu em trong sự mong đợi về tất cả những gì sắp tới. Em là điều tốt đẹp nhất từng xảy ra trong đời anh. Ngay lúc này anh đã nhớ em rồi, nhưng anh biết chắc từ trong tim em sẽ luôn ở bên anh. Trong một vài ngày ở bên em, em đã trở thành giấc mơ của anh.
Paul
Sau khi Paul đi là một năm không giống bất cứ năm nào khác trong đời Adrienne. Nhìn bề ngoài, mọi thứ vẫn diễn ra bình thường. Nàng vẫn ân cần chăm lo cho cuộc sống của các con, vẫn đi thăm cha mỗi ngày một lần, vẫn làm việc ở thư viện như trước. Nhưng nàng luôn mang bên mình một niềm vui mới, được điều bí mật mà nàng giữ kín trong lòng tiếp sức, và sự thay đổi trong thái độ của nàng không lọt khỏi con mắt của mọi người xung quanh. Đôi khi họ nhận xét rằng nàng đã cười nhiều hơn, và ngay cả các con nàng thỉnh thoảng cũng nhận ra nàng hay đi dạo sau bữa tối hoặc có lúc dành cả giờ trong bồn tắm, phớt lờ mọi bộn bề xung quanh.
Vào những giây phút đó nàng luôn nghĩ về Paul, nhưng hình ảnh của anh hiển hiện rõ nhất là khi nàng thấy chiếc xe đưa thư xuất hiện ở đầu đường, hết dừng lại đi để đưa thư lần lượt từng nhà.
Thư thường đến vào giữa mười và mười một giờ sáng, khi ấy Adrienne sẽ đứng bên cửa sổ, quan sát chiếc xe dừng trước ngôi nhà. Sau khi nó đi, nàng sẽ bước tới hộp thư và lục qua đống thư từ, tìm những dấu hiệu cho thấy thư của anh: loại phong bì màu be anh thích dùng, những chiếc tem phản ánh một thế giới mà nàng không hề biết, và tên anh viết nơi góc trên cùng bên trái.
Khi lá thư đầu tiên của anh tới, nàng đã đọc nó ngay ngoài hàng hiên. Ngay khi đọc xong, nàng bắt đầu đọc lại từ đầu, lần này chậm rãi hơn, chốc chốc lại dừng đọc và lưu lại thật lâu trên những lời của anh. Nàng làm như vậy với từng lá thư sau đó, và khi thư từ bắt đầu đều đặn, nàng nhận ra rằng lời nhắn của Paul trong mảnh giấy anh để lại là sự thật. Dù không thể sánh bằng việc được nhìn anh tận mắt hay thật sự cảm nhận vòng tay anh, nhưng tình cảm tha thiết trong từng lời anh viết bằng cách nào đó đã khiến khoảng cách giữa họ có vẻ ngắn đi nhiều.
Nàng thích tưởng tượng ra trông anh như thế nào khi viết những lá thư đó. Nàng mường tượng cảnh anh ngồi bên chiếc bàn xập xệ, một bóng đèn duy nhất chiếu lên vẻ mệt mỏi trên khuôn mặt. Nàng tự hỏi liệu anh sẽ viết thật nhanh, từng lời nói tuôn ra thành dòng không ngừng nghỉ, hay đôi lúc anh sẽ dừng lại mà nhìn vào khoảng không, sắp xếp những suy nghĩ của mình. Đôi khi những tưởng tượng của nàng mang hình dạng này, để rồi tới lá thư sau nó lại mang hình dạng khác, tùy thuộc vào điều anh viết, và Adrienne sẽ nhắm mắt trong khi cầm lá thư trên tay, cố gắng đoán ra cảm xúc của anh.
Nàng cũng viết lại thư cho anh, trả lời những câu hỏi của anh và kể cho anh nghe những chuyện đang diễn ra trong cuộc sống của mình. Vào những ngày đó, nàng gần như có thể thấy anh bên cạnh. Nếu gió lay động tóc nàng, sẽ như thể Paul đang dịu dàng vuốt ngón tay trên da nàng nếu nàng nghe thấy tiếng tích tắc khe khẽ của đồng hồ, đó sẽ như tiếng trái tim Paul đang đập khi nàng tựa đầu trên ngực anh. Nhưng khi đặt bút xuống, dòng suy nghĩ của nàng luôn trở về với những khoảnh khắc cuối cùng bên nhau, ôm nhau trên con đường lái xe rải sỏi, cái chạm nhẹ của môi anh, lời hứa chỉ một năm xa cách rồi sẽ bên nhau đến cuối đời.
Paul cũng rất hay gọi điện thoại khi có cơ hội vào thành phố, và nghe giọng nói dịu dàng của anh luôn khiến cổ họng nàng nghẹn lại. Cả tiếng cười của anh hay nỗi da diết trong giọng nói khi anh bảo anh nhớ nàng đến thế nào. Anh thường gọi vào ban ngày khi lũ trẻ đang ở trường, và mỗi khi nghe tiếng chuông reo, nàng lại thấy mình ngập ngừng trước khi trả lời, thầm hy vọng đó là Paul gọi. Các cuộc nói chuyện của họ thường không kéo dài, chỉ chưa đến hai mươi phút, nhưng cùng với những lá thư, thế là đủ để giúp nàng vượt qua một vài tháng tiếp theo.
Tại thư viện, nàng bắt đầu photo đủ loại sách, những trang nói về Ecuador, về mọi thứ từ địa lý cho đến lịch sử, bất kể thứ gì lọt vào mắt nàng. Có lần, khi một tạp chí du lịch viết một bài về văn hóa nơi đó, nàng đã mua tờ tạp chí rồi hàng giờ nghiên cứu các bức tranh và gần như học thuộc lòng bài báo, cố gắng tìm hiểu càng nhiều càng tốt về những con người đang làm việc cùng anh. Đôi khi, dù không chủ ý, nàng tự hỏi liệu có người phụ nữ nào ở đó nhìn anh với cùng nỗi khao khát như nàng hay không.
Nàng còn lướt qua cả những trang báo và tạp chí y tế, để tìm thông tin về cuộc sống của Paul hồi còn ở Raleigh. Nàng không bao giờ viết hay kể với anh rằng nàng đang làm việc đó – vì như anh thường nói trong các lá thư, đó là con người anh không bao giờ muốn trở lại – nhưng nàng không ngăn nổi tò mò. Nàng tìm thấy một bài báo đăng trên tờ Tạp chí Phố Wall, với một bức ảnh của anh trên đầu bài. Bài đó viết lúc anh ba mươi tám tuổi, và khi nàng ngắm nhìn khuôn mặt anh, lần đầu tiên nàng biết trông anh như thế nào khi còn trẻ. Dù nàng nhận ra ảnh của anh ngay, có điều gì đó lạ lẫm lọt vào mắt nàng – mái tóc còn chưa bạc rẽ ngôi sang bên, khuôn mặt không có nếp nhăn, vẻ mặt quá nghiêm túc, gần như là khắc nghiệt – những nét hoàn toàn xa lạ. Nàng nhớ rằng khi nói mình đã tự hỏi anh sẽ nghĩ gì về bài báo vào lúc này hay liệu anh có buồn quan tâm đến nó hay không.
Nàng còn tìm thấy một vài bức ảnh của anh trong những bản lưu đã cũ của tờ Tin tức và Người quan sát Raleigh, một chi nhánh bệnh viện mới ở Trung tâm Y tế Duke. Nàng nhận thấy trong mọi bức ảnh, anh không bao giờ cười và thầm nghĩ, đó là một Paul mà nàng không thể tưởng tượng ra.
Vào tháng Ba, không vì lý do gì đặc biệt, Paul đã đặt gửi hoa hồng đến nhà nàng và bắt đầu làm thế hằng tháng. Nàng thường đặt những bó hoa đó trong phòng, đinh ninh rằng các con nàng rồi cuối cùng sẽ nhận ra và hỏi đến, nhưng chúng đang mải mê với thế giới riêng của mình và đã không bao giờ nhận ra.
Vào tháng Sáu, nàng trở lại Rodanthe nghỉ một kỳ cuối tuần dài với Jean. Jean có vẻ bứt rứt khi nàng đến, như thể vẫn đang cố tìm hiểu xem điều gì đã khiến Adrienne không vui khi ở đó lần trước, nhưng sau một giờ nói chuyện thoải mái, Jean đã trở lại bình thường. Cuối tuần đó, Adrienne đã đi dạo trên bờ biển một vài lần, tìm một vỏ ốc khác, nhưng nàng không bao giờ tìm được vỏ ốc nào chưa bị sóng đánh vỡ.
Khi nàng về nhà, có một lá thư của Paul cùng một tấm ảnh do Mark chụp. Làm nền phía sau là phòng khám, và dù Paul trông gầy hơn sáu tháng trước, anh có vẻ khỏe mạnh. Nàng dựng tấm ảnh lên lọ muối tiêu trong khi viết thư trả lời cho anh. Trong lá thư của anh, anh đã hỏi xin nàng một bức ảnh, vậy nên nàng đã lục trong album ảnh của mình cho đến khi thấy một tấm thật ưng ý để gửi cho anh.
Mùa hè năm đó thật nóng nực, phần lớn tháng Bảy người ta chỉ ở trong nhà chạy máy lạnh liên tục. Vào tháng Tám, Matt đi học đại học, còn Amanda và Dan trở lại trường cấp ba. Khi những chiếc lá cây đổi sang màu hổ phách trong ánh nắng thu nhàn nhạt, nàng bắt đầu nghĩ đến những việc mà Paul và nàng có thể làm cùng nhau khi anh trở lại. Nàng tưởng tượng đến việc đi tới hãng bất động sản Biltmore ở Asheville để xem đồ trang trí cho kỳ nghỉ; nàng tự hỏi lũ trẻ sẽ nghĩ gì về anh khi anh tới nhà ăn bữa tối Giáng sinh hay Jean sẽ phản ứng thế nào khi nàng đặt một phòng ở Nhà Nghỉ dưới tên của cả hai người ngay đầu năm mới. Chắc chắn rằng, Adrienne cười nghĩ, lúc ấy Jean sẽ nhướng một bên mày. Đã biết tính nàng, ban đầu cô sẽ không nói gì mà chỉ mang vẻ mặt tự mãn đi khắp nơi như thể muốn nói rằng cô đã biết tất cả từ lâu và đã đoán trước được chuyện hai người họ sẽ đến đây.
Giờ đây, ngồi với con gái, Adrienne hồi tưởng lại những kế hoạch đó, tự ngẫm ra rằng trong quá khứ, đã có những lúc nàng gần như tin rằng chúng sẽ trở thành sự thật. Nàng từng tưởng tượng ra những viễn cảnh với những chi tiết sống động rõ ràng, nhưng gần đây nàng đã bắt mình thôi làm việc đó. Sau những ảo tưởng đẹp đẽ đó luôn là nỗi hối tiếc chỉ để lại trong nàng sự trống rỗng, và nàng biết mình nên dành thời gian đó cho những người xung quanh, những người vẫn đang là một phần có thật của đời nàng. Nàng không muốn phải cảm thấy nỗi đau do những giấc mơ đó đem lại nữa. Nhưng đôi khi, dù có cố gắng đến đâu, nàng vẫn không thể kiềm chế được.
“Chà,” Amanda khẽ thốt lên khi đặt mảnh giấy xuống và đưa lại cho mẹ mình.
Adrienne gập nó lại theo những nếp gấp cũ, đặt sang bên rồi rút ra tấm ảnh của Paul và Mark đã chụp.
“Đây là Paul,” nàng nói.
Amanda cầm lấy tấm ảnh. Dù đã nhiều tuổi, trông ông ấy điển trai hơn cô tưởng tượng. Cô ngắm nhìn hồi lâu đôi mắt dường như đã hút hồn mẹ mình. Một lát sau, cô mỉm cười.
“Con có thể thấy được vì sao mẹ phải lòng ông ấy. Mẹ còn tấm ảnh nào khác không?”
“Không,” nàng đáp, “chỉ có thế thôi.”
Amanda gật đầu, ngắm nghía bức ảnh một lần nữa.
“Mẹ tả ông ấy rất giống thật.” Cô ngập ngừng. “Ông ấy có bao giờ gửi ảnh cho Mark không?”
“Không, nhưng trông hai cha con họ rất giống nhau,” Adrienne nói.
“Mẹ đã gặp anh ta rồi ư?”
“Phải,” nàng đáp.
“Ở đâu?”
“Ở đây.”
Amanda nhướng mày. “Tại nhà mình ư?”
“Cậu ấy đã ngồi ngay chỗ con đang ngồi.”
“Lúc đó bọn con ở đâu?”
“Ở trường.”
Amanda lắc đầu, cố gắng tiếp nhận thông tin mới này. “Con bắt đầu rối lên vì chuyện của mẹ rồi,” cô nói.
Adrienne nhìn đi nơi khác, rồi chậm rãi đứng dậy khỏi bàn. Vừa bước ra khỏi bếp, nàng vừa thì thầm. “Mẹ cũng từng như vậy.”
Vào tháng Mười, cha của Adrienne đã phục hồi phần nào từ cơn đột quỵ, tuy thế ông vẫn không đủ sức khỏe để rời khỏi viện điều dưỡng. Suốt một năm đó Adrienne vẫn đến thăm ông như thường lệ, trò chuyện với ông và cố gắng giúp ông thấy dễ chịu hơn.
Bằng cách tính toán chi tiêu thật thận trọng, nàng đã tiết kiệm đủ tiền để ông được ở trong viện cho đến tháng Tư năm sau, nhưng sau đó, nàng sẽ không biết phải làm gì. Đến hẹn lại lên, nàng luôn quay trở lại với nỗi lo này dù đã cố gắng hết sức để giấu nỗi sợ hãi của mình trước mặt ông.
Hầu hết những hôm nàng đến, chiếc vô tuyến luôn đang bật oang oang, như thể các y tá ca sáng tin rằng tiếng ồn sẽ giúp dẹp bớt màn sương mù bao phủ đầu óc ông. Việc đầu tiên Adrienne làm là tắt nó đi. Nàng là người duy nhất thường xuyên đến thăm ông ngoại trừ các y tá. Dù hiểu được sự miễn cưỡng của các con khi phải đi cùng, nàng vẫn ước giá chúng chịu làm việc đó. Không chỉ vì cha nàng, người luôn muốn được gặp chúng, mà còn vì chính chúng nữa. Nàng luôn tin rằng gia đình dành thời gian bên nhau không chỉ vào lúc hạnh phúc mà cả những khi khó khăn là một điều quan trọng, vì những bài học nó có thể dạy cho mỗi người.
Cha nàng đã mất khả năng nói, nhưng nàng cũng biết ông có thể hiểu những người nói chuyện với ông. Vì nửa bên phải khuôn mặt đã bại liệt, nụ cười của ông mang một hình dạng méo mó mà nàng thấy thật thân thương. Người ta cần đến sự trưởng thành và lòng kiên nhẫn thì mới vượt qua được vẻ ngoài của ông lúc này để nhìn thấy con người mà họ từng biết trước đây. Dù các con nàng đôi khi cũng làm được như vậy, chúng vẫn thường không thoải mái khi nàng bắt chúng đi thăm cùng. Như thể nhìn ông ngoại mình, chúng thấy một tương lai mà chúng không thể tưởng tượng sẽ phải đối mặt ra sao và sợ hãi vì ý nghĩ rằng chúng có thể cũng sẽ có kết cục như vậy.
Nàng thường dựng gối của ông lên trước khi ngồi xuống bên giường, rồi nắm lấy tay ông mà kể chuyện. Hầu hết thời gian nàng cho ông biết những chuyện xảy ra gần đây, hay chuyện về gia đình, hay tình hình của bọn trẻ, còn ông sẽ nhìn nàng không chớp, mắt ông không rời khuôn mặt nàng, lặng lẽ giao tiếp với nàng bằng cách duy nhất ông có thể. Ngồi bên ông, nàng sẽ không thể không nhớ lại tuổi thơ của mình: mùi Aqua Velva trên khuôn mặt ông, công việc cào cỏ khô trong chuồng ngựa, cảm giác thô ráp từ khuôn mặt lún phún râu của ông khi ông hôn nàng để chúc ngủ ngon, những lời dịu dàng ông luôn nói với nàng khi nàng còn nhớ.
Vào ngày trước lễ Halloween, nàng đến thăm ông, biết mình sẽ phải làm gì, nghĩ rằng đã đến lúc ông được biết.
“Có chuyện này con phải kể với bố,” nàng bắt đầu. Rồi, cố gắng nói thật đơn giản, nàng kể với ông về Paul và anh có ý nghĩa thế nào đối với nàng.
Nàng nhớ rằng sau khi kể xong, nàng đã tự hỏi ông nghĩ gì về điều mình vừa kể. Mái tóc ông đã bạc trắng và thưa đi nhiều. Cặp lông mày của ông gợi nàng nhớ đến những cụm bông.
Khi đó ông đã mỉm cười, nụ cười méo mó của mình, và dù ông không cất lên thành tiếng, khi ông mấp máy môi, nàng đã biết ông muốn nói gì.
Cổ họng nàng nghẹn lại, và nàng cúi người xuống giường, tựa đầu lên ngực ông. Bàn tay còn cử động được của ông tìm tới lưng nàng, vỗ về nhẹ nhàng và yếu ớt. Nàng có thể cảm thấy xương sườn ông mong manh bên dưới mình, cùng nhịp tim ông đập khe khẽ.
“Ôi, bố,” nàng thầm thì. “Con cũng tự hào về bố.”
Trong phòng khách, Adrienne bước tới cửa sổ kéo rèm sang bên. Ngoài phố vắng tanh, đèn đường tỏa những vòng sáng tròn ra xung quanh. Ở đâu đó ngoài xa, một chú chó sửa lên cảnh cáo một kẻ xâm nhập có thật hay tưởng tượng nào đó.
Amanda vẫn ngồi trong bếp, dù Adrienne biết con bé sẽ ra tìm nàng. Đêm nay là một đêm dài cho cả hai người, và Adrienne với tay lấy chiếc ly.
Nàng và Paul, họ đã là gì của nhau? Ngay cả lúc này, nàng cũng không biết chắc. Chẳng có một định nghĩa đơn giản nào áp dụng được cho anh. Anh không phải chồng hay hôn phu của nàng, từ bạn trai nghe như thể anh là một cơn say nắng của tuổi thiếu niên, còn tình nhân thì chỉ thể hiện được một phần nhỏ giữa những điều họ đã chia sẻ với nhau. Anh là người duy nhất trong đời nàng, nàng thầm nghĩ, dường như thách thức mọi lời miêu tả, và nàng tự hỏi có bao nhiêu người cũng có thể nói như vậy về một ai đó trong đời.
Trên đầu nàng, vầng trăng tròn được những đám mây tím thẫm bao quanh, từ từ trôi về phía Đông trong làn gió nhẹ. Sáng mai, ngoài bờ biển sẽ có mưa, và Adrienne biết nàng đã đúng khi không kể những lá thư còn lại cho Amanda.
Liệu Amanda có thể biết thêm được gì từ chúng? Những chi tiết về cuộc sống của Paul ở phòng khám và thời gian biểu của anh mỗi ngày chăng? Hay là mối quan hệ giữa anh và Mark đã tiến triển đến đâu? Tất cả những điều đó đều được nói rõ trong các bức thư, giống như những suy nghĩ, hy vọng và nỗi sợ hãi của anh, nhưng không điều gì trong số đó là cần thiết cho điều nàng muốn truyền đạt đến Amanda. Những thứ nàng đã chọn là đủ rồi.
Nhưng sau khi Amanda đi, nàng biết nàng sẽ đọc lại tất cả những lá thư đó, chính vì việc nàng đã làm tối nay. Trong ánh sáng vàng của cây đèn đầu giường, nàng sẽ lần ngón tay theo từng lời anh viết, nuốt lấy từng chữ và biết rằng chúng có ý nghĩa với nàng hơn bất cứ thứ gì khác mà nàng có.
Đêm nay, dù có mặt con gái, Adrienne vẫn thấy cô đơn. Nàng sẽ luôn cô đơn. Nàng biết điều đó khi kể chuyện cho con gái trong bếp ban nãy, nàng biết điều đó ngay lúc này khi đang đứng bên cửa sổ. Đôi khi nàng tự hỏi mình sẽ là ai nếu Paul không xuất hiện trong đời. Có lẽ nàng sẽ lại kết hôn lần nữa, và dù nghĩ rằng mình sẽ là một người vợ tốt, đôi khi nàng vẫn tự hỏi liệu nàng có chọn được người chồng tốt hay không.
Việc đó cũng chẳng dễ dàng. Một vài người bạn góa bụa hay đã ly dị của nàng đã tái hôn. Hầu hết những người họ cưới đều có vẻ tốt, nhưng không ai giống được Paul. Có thể giống Jack, nhưng Paul thì không. Nàng tin rằng tình yêu và đam mê có thể có ở mọi lứa tuổi, nhưng cũng đã nghe và đủ từ bạn bè để biết rằng có nhiều mối quan hệ đem lại nhiều rắc rối hơn giá trị của chúng. Adrienne không muốn lập gia đình với người nào như những người chồng của bạn bè nàng, nhất là khi nàng có những lá thư nhắc rằng nàng đang thiếu vắng điều gì. Chẳng hạn, liệu một người chồng mới có thể thầm thì vào tai nàng những lời như Paul đã viết trong thư của anh, những lời nàng thuộc lòng ngay lần đọc đầu tiên hay không?
Khi ngủ, anh mơ về em, còn khi thức, anh mong được ôm em trong vòng tay. Thời gian chúng ta xa nhau chỉ khiến anh thêm chắc chắn rằng anh muốn ở bên em hằng đêm, và bên trái tim em mỗi ngày.
Hay những lời này, từ lá thư tiếp theo?
Khi anh viết cho em, anh cảm thấy hơi thở của em; khi em đọc thư, anh tưởng tượng em sẽ cảm thấy hơi thở của anh. Em có thấy giống như vậy không? Những lá thư này giờ đây đã là một phần của chúng ta, một phần chuyện tình của chúng ta, là nhân chứng trọn đời nhắc rằng chúng ta đã vượt qua được khoảng thời gian này. Cảm ơn em vì đã giúp đỡ anh vượt qua được một năm này, nhưng hơn thế, cảm ơn em trước vì tất cả những năm sắp tới.
Hay ngay cả những lời này, sau khi anh và Mark cãi cọ vào cuối mùa hè, một chuyện không thể không khiến anh phiền muộn.
Những ngày gần đây, có rất nhiều điều anh mong ước, nhưng trên hết, anh ước có em ở đây. Thật kỳ lạ, nhưng trước khi gặp em, anh không thể nhớ được lần cuối cùng mình khóc. Giờ đây, nước mắt dường như rất dễ đến... nhưng em có một cách khiến cho nỗi đau của anh cũng trở nên đáng quý hơn, em giải thích mọi việc theo hướng có thể giảm bớt nỗi đau cho anh. Em là báu vật, là món quà của anh, và khi chúng ta lại được ở bên nhau, anh sẽ ôm chặt em cho đến khi vòng tay anh không còn đủ sức ôm em nữa. Những suy nghĩ về em đôi khi là thứ duy nhất có thể giúp anh tiếp tục tiến lên.
Nhìn về phía mặt trăng ở xa, Adrienne biết câu trả lời. Không, nàng nghĩ, nàng sẽ không thể tìm thấy một người đàn ông nào giống Paul nữa, và trong khi tựa đầu lên khung cửa lạnh lẽo, nàng cảm thấy Amanda đứng phía sau. Adrienne thở dài, biết rằng đã đến lúc kết thúc câu chuyện.
“Ông ấy định sẽ đến đây vào Giáng sinh,” Adrienne nói, giọng nhẹ đến mức Amanda phải căng tai mới nghe thấy. “Mẹ đã chuẩn bị hết mọi thứ. Mẹ đã đặt một phòng khách sạn,” nàng nói, “để mẹ và ông ấy có thể ở bên nhau đêm đầu tiên ông ấy về. Thậm chí mẹ còn mua một chai pinot grigio.” Nàng ngừng lời. “Có một lá thư của Mark trong hộp trên bàn giải thích mọi chuyện.”
“Chuyện gì đã xảy ra vậy?”
Trong bóng tối, Adrienne quay lại. Một nửa khuôn mặt nàng phủ bóng đen, và khi nhìn thấy vẻ mặt của mẹ mình, Amanda đột nhiên ớn lạnh.
Mất một lúc lâu Adrienne mới trả lời, lời của nàng trôi trong bóng tối.
“Con không biết sao?” nàng thầm thì.