Những đêm ở Rodanthe - Chương 16 - Phần 01
CHƯƠNG 16 - PHẦN 1
Rocky Mount, 2002
Adrienne đã kể xong câu chuyện của mình, giờ cổ họng nàng khô đắng. Dù đã có cốc rượu làm dịu đi, nàng vẫn cảm thấy lưng mỏi nhừ vì đã ngồi nguyên một tư thế quá lâu. Nàng cựa quậy trên ghế, thấy đau nhói, và nhận ra đó là những triệu chứng ban đầu của bệnh viêm khớp. Khi nàng nói đến điều này với bác sĩ của mình, anh ta đã bắt nàng ngồi trên bàn trong một căn phòng sực mùi amoniac, nâng tay nàng lên rồi bảo nàng gập đầu gối, rồi kê cho nàng một đơn thuốc mà nàng chẳng buồn mua. Bệnh vẫn chưa nặng lắm, nàng tự nhủ; hơn nữa, nàng tin rằng một khi đã bắt đầu uống thuốc vì một bệnh gì đó, những loại thuốc khác sẽ sớm theo sau mọi thứ bệnh đến với những người ở tuổi nàng. Rồi đủ loại thuốc sẽ thi nhau kéo đến, đủ màu như cầu vồng, viên này uống buổi sáng, viên kia uống buổi tối, một số uống kèm thức ăn, số khác thì không, và nàng sẽ phải dán một lịch uống thuốc trong tủ thuốc của mình để theo cho đúng. Đó sẽ là một phiền toái không đáng có.
Amanda ngồi cúi đầu. Adrienne quan sát con bé, biết rằng những câu hỏi sẽ đến. Điều đó là không thể tránh khỏi, nhưng nàng hy vọng chúng sẽ không đến ngay. Nàng cần thời gian để sắp xếp suy nghĩ của mình, để nàng có thể kết thúc chuyện mình đã bắt đầu.
Nàng mừng là Amanda đã đồng ý gặp nàng tại đây, trong ngôi nhà này. Nàng đã sống ở đây suốt hơn ba mươi năm, và đối với nàng nó là mái nhà còn thân thuộc hơn cả nơi nàng đã sống khi còn bé. Dù một vài cánh cửa đã cong vẹo, tấm thảm trên hành lang đã mòn vẹt đến mỏng như giấy, và màu gạch lát nhà tắm đã lỗi thời từ nhiều năm, nhưng có gì đó khiến nàng thấy an tâm khi biết rằng mình có thể tìm được bộ đồ cắm trại ở góc trong cùng bên trái gác mái hay rằng van lò sưởi sẽ bật ra vào lần đầu tiên mở lại mỗi mùa đông. Nơi này có những thói quen riêng của nó, nàng cũng vậy, và qua nhiều năm, nàng tin rằng những thói quen đó đã ăn khớp với nhau theo một cách khiến cho cuộc sống của nàng trở nên chắc chắn và thoải mái đến kỳ lạ.
Căn bếp cũng vậy. Trong mấy năm gần đây, cả Matt lẫn Dan đã nhiều lần xin phép cải tạo lại, và vào dịp sinh nhật nàng chúng nó đã thu xếp để một tay thầu xây dựng đến xem qua toàn bộ nơi này. Anh ta gõ các cánh cửa, cắm tuốc nơ vít vào các góc của quầy bếp nứt nẻ, bật tắt các công tắc, và khẽ huýt sáo khi nhìn thấy bộ bếp lò cổ lỗ sĩ nàng vẫn đang dùng để nấu nướng. Cuối cùng, anh ta đề nghị nàng thay gần như tất cả mọi thứ, rồi đặt ra một con số dự kiến cùng một danh sách các mục tham khảo. Dù Adrienne biết rằng các con trai nàng có ý tốt, nàng đã bảo chúng nên để dành tiền cho những nhu cầu của gia đình nhỏ của chúng thì hơn.
Hơn nữa, nàng thích căn bếp cũ kỹ nàng đúng như nó vẫn thế. Cải tạo sẽ thay đổi những nét riêng của nó, nhưng nàng lại thích những kỷ niệm đã in dấu ấn ở đây. Chính đây là nơi họ đã trải qua phần lớn thời gian bên nhau như một gia đình, cả trước và sau khi Jack bỏ đi. Lũ trẻ đã làm bài tập ở chiếc bàn nàng đang ngồi, trong nhiều năm, chiếc điện thoại duy nhất trong nhà vẫn treo trên tường, và nàng vẫn nhớ những lần thấy dây điện thoại vắt giữa cánh cửa sau và khung cửa khi một đứa trong lũ con của nàng cố gắng kiếm chút riêng tư bằng cách đứng nói chuyện ngoài hiên. Trên cột đỡ của tủ đồ ăn là những dấu bút chì cho thấy lũ trẻ của nàng đã lớn nhanh thế nào và cao ra sao qua từng năm, vậy nên nàng không thể tưởng tượng mình sẽ muốn bỏ những thứ đó đi để đổi lấy thứ gì mới và hiện đại, dù có tốt đến đâu đi nữa. Không giống như phòng khách, nơi lúc nào vô tuyến cũng bật oang oang, hay các phòng ngủ nơi mỗi người thu về với riêng mình, đây là nơi mọi thành viên đến để nói chuyện và lắng nghe, để học tập và dạy dỗ, để cười và khóc. Đây là nơi tổ ấm của họ được là đúng nghĩa của nó, là nơi Adrienne luôn cảm thấy hài lòng nhất.
Và đây là nơi Amanda sẽ được biết mẹ nó thực sự là ai.
Adrienne uống ngụm rượu cuối cùng rồi đẩy chiếc ly sang bên. Cơn mưa lúc này đã tạnh, nhưng dường như những giọt nước còn đọng lại trên cửa sổ đã uốn cong ánh sáng khiến thế giới bên ngoài đổi khác, trở thành một nơi nàng không hoàn toàn nhận ra. Điều đó không khiến nàng ngạc nhiên, vì cùng với tuổi tác, nàng đã nhận ra rằng khi dòng suy tưởng trôi về quá khứ, mọi thứ xung quanh dường như luôn thay đổi. Đêm nay, khi kể câu chuyện của mình, nàng cảm thấy như thể những năm tháng giữa quá khứ và hiện tại đã quay ngược lại, và dù đó là một suy nghĩ nực cười, nàng tự hỏi liệu con gái nàng có nhận ra một nét tươi trẻ mới mẻ trong nàng hay không.
Không, nàng quả quyết, hầu như chắc chắn con bé chưa nhận ra, nhưng đó là điều hiển nhiên ở tuổi của Amanda. Amanda không thể hiểu được cảm giác của một người ở tuổi sáu mươi cũng như con bé không thể hiểu được cảm giác của một người đàn ông, và Adrienne đôi khi tự hỏi khi nào Amanda sẽ nhận ra rằng con người ta hầu như không mấy khác nhau. Già hay trẻ, nam hay nữ, hầu như tất cả mọi người đều biết muốn những thứ giống nhau: Họ muốn cảm giác bình yên trong tim, họ muốn một cuộc sống không rối loạn, họ muốn được hạnh phúc. Điểm khác nhau, Adrienne nghĩ, chính là ở chỗ phần lớn những người còn trẻ dường như đều nghĩ rằng những thứ đó ở đâu đó phía tương lai, trong khi những người già tin rằng chúng đã nằm lại trong quá khứ.
Điều đó đúng đối với cả nàng nữa, ít nhất là phần nào, nhưng dù quá khứ có tuyệt diệu đến đâu, nàng cũng không cho phép mình tiếp tục chìm đắm trong đó như nhiều người bạn của nàng. Quá khứ không chỉ là một khu vườn đầy hoa hồng và ánh nắng, mà còn mang những phần đau đớn tan nát nữa. Nàng đã cảm thấy nỗi đau đớn ấy trong những gì Jack bỏ lại cho cuộc đời nàng khi mới đến căn Nhà Nghỉ, và lúc này nàng đang cảm thấy như thế về Paul Flanner.
Đêm nay, nàng sẽ khóc, nhưng như nàng đã tự hứa với mình mỗi ngày kể từ khi anh rời khỏi Rodanthe, nàng sẽ tiếp tục sống. Nàng là một người mạnh mẽ, như cha nàng đã nói với nàng biết bao lần, nhưng dù điều đó ít nhiều làm nàng hài lòng, nó cũng không xóa được nỗi đau và tiếc nuối.
Giờ đây, nàng cố gắng tập trung vào những việc đem lại niềm vui cho nàng. Nàng thích được ngắm lũ cháu khám phá thế giới, thích đi thăm xem bạn bè mình đang sống thế nào, thậm chí nàng còn dần dần thích những ngày làm việc tại thư viện.
Công việc cũng không mấy vất vả - hiện giờ nàng làm trong khu vực tham khảo đặc biệt, nơi người ta không được mượn sách ra ngoài – và vì có những khi không ai cần nhờ đến nàng trong nhiều giờ liền, nàng có thời gian quan sát những người đẩy cánh cửa kính bước vào tòa nhà. Nàng đã trở nên thích việc đó sau nhiều năm làm việc. Nhìn người ta ngồi trong những căn phòng yên tĩnh, nàng thấy mình không thể không cố tưởng tượng ra cuộc sống của họ. Nàng sẽ cố gắng đoán xem người này đã có gia đình chưa, cô ta làm nghề gì, sống ở đâu trong thành phố, hay cô ta thích những loại sách nào, và đôi khi, nàng sẽ có cơ hội tìm hiểu xem mình có đoán đúng hay không. Người đó có thể đến nhờ nàng tìm giúp một cuốn sách nào đó, thế là nàng sẽ thân thiện bắt chuyện với họ. Đã nhiều lần phỏng đoán của nàng khá gần sự thật và nàng lại tự hỏi làm sao mình biết được.
Thỉnh thoảng, một người nào đó vào thư viện rồi để ý đến nàng. Nhiều năm trước, những người đàn ông đó thường nhiều tuổi hơn nàng, giờ thì họ có xu hướng trẻ hơn, nhưng dù già hay trẻ, trình tự câu chuyện vẫn diễn ra như nhau. Bất kể là ai, anh ta sẽ bắt đầu loanh quanh nhiều ở khu vực tham khảo đặc biệt, sẽ hỏi nhiều câu hỏi, ban đầu là về sách, rồi về những đề tài chung chung, và cuối cùng là về nàng. Nàng không ngại trả lời những câu hỏi đó, và dù nàng không bao giờ bật đèn xanh, hầu hết bọn họ cuối cùng đều mời nàng đi chơi. Mỗi lần như vậy, nàng luôn cảm thấy thoáng tự hào, nhưng trong thâm tâm nàng biết dù người theo đuổi có tuyệt vời đến đâu, bất kể nàng thích ở bên anh ta đến đâu, nàng sẽ không thể mở lòng với anh ta như nàng đã từng làm được nữa.
Thời gian ở Rodanthe còn thay đổi nàng ở những phương diện khác nữa. Việc ở bên Paul đã chữa lành cảm giác mất mát và bị phản bội sau vụ ly dị và thay thế bằng vẻ mạnh mẽ và duyên dáng hơn. Việc biết rằng mình đáng được yêu khiến nàng dễ dàng ngẩng cao đầu, và nhờ lòng tự tin tăng lên, nàng đã có thể nói chuyện với Jack mà không có những ẩn ý hay trách móc, không có sự kết tội hay tiếc nuối mà nàng đã từng không thể che giấu trong giọng nói của mình trước đây. Sự thay đổi đó xảy ra dần dần, những khi anh ta gọi điện để nói chuyện với lũ trẻ, và họ hỏi thăm nhau một vài phút trước khi nàng đưa ống nghe cho con. Rồi sau đó, nàng bắt đầu hỏi về Linda hay về công việc của anh ta, hoặc nàng cho anh ta biết về những việc nàng làm gần đây. Dần dần, Jack dường như đã nhận ra nàng không còn là con người trước đây nữa. Tháng rồi năm trôi qua, những cuộc nói chuyện giữa họ ngày càng trở nên thân thiện hơn, thậm chí đôi khi họ gọi điện cho nhau chỉ để tán gẫu. Khi cuộc hôn nhân của anh ta với Linda bắt đầu rạn nứt, họ đã nói chuyện qua điện thoại hàng giờ, đôi khi tới tận đêm khuya. Khi Jack và Linda ly hôn, Adrienne đã ở bên cạnh giúp anh ta vượt qua đau khổ, và nàng thậm chí đã cho phép anh ta trở lại trong phòng khách khi anh ta đến thăm lũ trẻ. Mỉa mai thay, Linda đã bỏ anh ta theo một người đàn ông khác, và Adrienne nhớ mình đã ngồi với Jack trong phòng khách khi anh ta lắc ly rượu Scotch trên tay. Lúc đó đã quá nửa đêm, và anh ta đã lảm nhảm suốt vài giờ về những gì đang phải trải qua, cho đến khi anh ta rốt cục cũng nhận ra ai đang nghe mình nói.
“Cô cũng đã đau khổ như thế này ư?” anh ta hỏi.
“Phải,” Adrienne đáp.
“Cô mất bao lâu để vượt qua?”
“Ba năm,” nàng nói, “nhưng tôi đã gặp may.”
Jack gật đầu. Mím chặt môi, anh ta nhìn chằm chằm vào cốc rượu.
“Tôi xin lỗi,” anh ta nói. “Điều ngu ngốc nhất tôi từng làm là bước chân ra khỏi cửa ngôi nhà này.”
Adrienne mỉm cười và vỗ nhẹ đầu gối anh ta. “Tôi biết. Nhưng dù sao vẫn cám ơn anh.”
Khoảng một năm sau, Jack mời nàng đi ăn tối. Và cũng như với những người khác, Adrienne lịch sự từ chối.
Adrienne đứng dậy bước về phía quầy bếp để lấy chiếc hộp nàng đã đem từ phòng ngủ xuống, rồi quay lại bàn. Lúc đó, Amanda đang quan sát nàng với một vẻ có thể gọi là ngưỡng mộ đầy cảnh giác. Adrienne mỉm cười nắm lấy tay con gái.
Khi làm thế, Adrienne thấy được rằng có lúc nào đó trong vài giờ, Amanda cuối cùng đã nhận ra nó không biết nhiều về mẹ mình như vẫn tưởng. Adrienne thầm nghĩ, đây là một sự đảo ngược tình thế. Amanda đang mang ánh mắt giống như Adrienne đôi lúc vẫn mang trong quá khứ, khi lũ trẻ về nhà họp mặt vào kỳ nghỉ và nói vui về những chuyện chúng từng làm khi còn trẻ. Chỉ vài năm trước nàng mới biết rằng Matt từng lẻn ra khỏi phòng để đi chơi đêm với bạn, hay Amanda đã từng hút thuốc rồi lại cai thuốc khi học đại học, hay rằng Dan là người đã gây ra vụ cháy nho nhỏ trong gara mà mọi người vẫn cho là do ổ điện bị chập. Nàng đã cười xòa cùng với chúng, vừa cảm thấy bất ngờ đến ngô nghê, và nàng tự hỏi liệu đó có phải là cảm giác Amanda đang thấy hay không.
Trên tường, chiếc đồng hồ vẫn gõ những nhịp đều đặn. Ống hơi lò sưởi bật kêu lách tách. Cùng lúc đó, Amanda thở dài.
“Một câu chuyện dài,” cô nói.
Trong khi nói, Amanda dùng bàn tay kia nghịch ly rượu của mình, xoay nó theo vòng tròn. Rượu trong ly phản chiếu ánh đèn và sáng lên lấp lánh.
“Matt và Dan có biết không ạ? Ý con là, mẹ đã kể với hai anh em về chuyện này chưa?”
“Chưa.”
“Tại sao ạ?”
“Mẹ không chắc chúng có cần biết hay không,” Adrienne mỉm cười. “Và hơn nữa, mẹ không biết liệu chúng có hiểu được không, dù mẹ có kể chuyện gì chăng nữa. Một là chúng là đàn ông, và cũng có phần vì cảnh giác nữa – mẹ không muốn chúng nghĩ rằng Paul chỉ lợi dụng một phụ nữ cô đơn. Đàn ông đôi khi như thế đấy, nếu họ gặp ai đó mà phải lòng người ta, thì đó là tình cảm thật, dù chuyện đó xảy ra nhanh thế nào đi nữa. Nhưng nếu ai đó khác phải lòng đúng người phụ nữ mà họ quan tâm, họ chỉ chăm chăm nghi ngờ ý đồ của người đàn ông đó. Thành thật mà nói, mẹ không biết liệu có bao giờ mẹ kể với chúng không.”
Amanda gật đầu trước khi hỏi tiếp. “Vậy sao mẹ lại kể với con?”
“Vì mẹ nghĩ con cần nghe chuyện này.”
Amanda bắt đầu xoắn một lọn tóc của mình trong vô thức. Adrienne tự hỏi thói quen đó do di truyền hay là con bé học được do quan sát mẹ mình.
“Mẹ này?”
“Ơi?”
“Sao mẹ không kể gì về ông ấy với bọn con? Ý con là mẹ chưa bao giờ nhắc một chút nào đến chuyện này.”
“Mẹ không thể.”
“Tại sao?”
Adrienne dựa vào thành ghế và hít một hơi thật sâu.
“Ban đầu, có lẽ là vì mẹ sợ đó không phải là tình cảm thật. Mẹ biết mẹ và ông ấy yêu nhau, nhưng khoảng cách có thể làm những việc kỳ lạ với con người ta, và trước khi sẵn sàng kể với các con, mẹ muốn chắc chắn rằng tình cảm đó sẽ bền vững. Rồi sau đó, khi mẹ bắt đầu nhận thư từ ông ấy và biết rằng sẽ... mẹ không biết nữa... dường như sẽ rất lâu nữa các con mới có thể gặp ông ấy nên mẹ thấy có kể cũng không ích gì...”
Nàng dừng lời để cẩn thận chọn lựa từng từ.
“Con cũng phải thấy rằng các con bây giờ không phải là các con hồi đó. Lúc đó con mới mười bảy, Dan thì chỉ mười lăm, và mẹ không biết liệu có đứa nào trong ba đứa đã sẵn sàng nghe một chuyện như vậy không. Ý mẹ là, các con sẽ cảm thấy thế nào khi vừa từ chỗ bố quay về mà mẹ lại nói rằng mẹ đang yêu một người mình mới gặp chứ?”
“Biết đâu bọn con sẽ chấp nhận được.”
Adrienne chẳng tin điều đó, nhưng nàng không tranh cãi với Amanda mà chỉ nhún vai. “Ai mà biết được. Có thể con nói đúng. Có thể các con sẽ chấp nhận được một chuyện như vậy, nhưng vào lúc đó, mẹ không muốn làm liều. Và nếu phải làm lại, chắc mẹ sẽ vẫn làm như thế thôi.”
Amanda xoay người trên ghế. Một lát sau, cô nhìn thẳng vào mắt mẹ mình. “Mẹ có chắc là ông ấy yêu mẹ không?” cô hỏi.
“Có,” nàng đáp.
Trong ánh sáng đang tắt dần, đôi mắt Amanda có thể ngả sang màu xanh lục. Cô mỉm cười dễ dàng, như thể đang cố gắng chỉ ra một điều rõ ràng mà không làm tổn thương mẹ mình.
Adrienne biết Amanda sẽ hỏi gì tiếp theo. Nàng nghĩ, đó sẽ là câu hỏi cuối cùng còn lại theo lẽ suy nghĩ thông thường.
Amanda ngả người về phía trước, khuôn mặt đầy vẻ quan tâm. “Vậy thì ông ấy đâu?”
Trong suốt mười bốn năm kể từ lần cuối cùng gặp Paul Flanner, Adrienne đã đến Rodanthe năm lần. Chuyến đầu tiên của nàng là vào tháng Sáu cùng năm đó, và dù khi đó bờ cát có vẻ trắng hơn còn đại dương như nhập làm một với bầu trời tại đường chân trời, ba chuyến đi còn lại của nàng đều vào mùa đông, khi thế giới mang một màu xám lạnh lẽo, vì nàng biết rằng thời tiết đó sẽ gợi nàng nhớ về quá khứ mạnh mẽ hơn.
Vào buổi sáng khi Paul đi, Adrienne đã dạo quanh ngôi nhà, không thể ngồi yên một chỗ. Di chuyển liên tục dường như là cách duy nhất giúp nàng đi trước những cảm xúc của mình. Chiều muộn ngày hôm đó, khi hoàng hôn đã bắt đầu phủ những ráng vàng và đỏ lên bầu trời, nàng ra ngoài nhìn lên những sắc màu đó, cố gắng tìm chiếc máy bay Paul đang ngồi. Khả năng nhìn thấy nó gần như bằng không, nhưng nàng vẫn cứ đứng đó, càng lúc càng lạnh cóng cùng buổi chiều đổ dần về tối. Giữa những đám mây, đôi khi nàng thấy những vệt khói sau đuôi máy bay, nhưng lý trí cho nàng biết rằng đó là những chiếc máy bay đậu tại căn cứ hải quân ở Norfolk. Khi trở vào nhà, hai bàn tay nàng đã tê cóng, vậy nên nàng ra bồn rửa xả nước ấm vào tay, cảm nhận sự nhói buốt trên từng đầu ngón. Dù hiểu rằng anh đã đi, nàng vẫn bày hai chỗ trên bàn ăn như trước.
Một phần trong nàng hy vọng anh sẽ trở lại. Trong khi ăn tối, nàng tưởng tượng ra anh bước qua cửa trước và thả hai chiếc túi xuống sàn, giải thích rằng anh không thể đi nếu không được ở bên nàng thêm một đêm nữa. Họ sẽ đi vào ngày mai hay ngày kia, anh sẽ nói vậy, và họ sẽ theo đường cao tốc lên phía Bắc, cho đến khi nàng rẽ sang lối về nhà.
Nhưng anh đã không trở lại. Cánh cửa trước không hề mở ra, và điện thoại không hề reo. Dù mong anh ở lại đến thế, Adrienne biết rằng nàng đã đúng khi giục anh lên đường. Thêm một ngày bên nhau cũng không khiến việc chia tay dễ dàng hơn, thêm một đêm bên nhau sẽ chỉ có nghĩa là họ sẽ phải nói tạm biệt thêm lần nữa. Chỉ một lần đầu tiên đã quá khó khăn rồi. Nàng không thể tưởng tượng ra việc sẽ phải nói những lời đó lần thứ hai, cũng không thể tưởng tượng mình sẽ phải tái diễn một ngày nữa như ngày hôm nay.
Sáng hôm sau, nàng bắt đầu dọn dẹp Nhà Nghỉ, làm việc thật thong thả từ tốn, tập trung vào lịch trình hằng ngày. Nàng rửa bát đĩa, lau khô rồi cất đi. Nàng hút bụi thảm trải sàn, quét cát trong bếp và lối đi, phủi bụi dãy lan can và các cây đèn trong phòng khách, rồi chăm chú cho căn phòng của Jean cho đến khi nàng hài lòng thấy rằng trông nó đã hệt như khi nàng đến.
Rồi khi xách va li của mình trên gác, nàng mở cửa căn phòng màu xanh.
Nàng đã không vào căn phòng này từ sáng hôm trước. Ánh mặt trời buổi in những bóng nắng rực rỡ như những lăng kính lên các bức tường. Anh đã dọn giường trước khi đi xuống nhưng có vẻ đã nhận ra rằng không cần quá tươm tất. Vẫn có những nếp nhăn trên chăn khiến tấm phủ giường gồ lên, và tấm ga giường có đôi chỗ bị xô ra, gần chạm xuống sàn nhà. Trong phòng tắm, một chiếc khăn tắm treo trên thanh rèm, thêm hai chiếc khác bị vơ thành một đống gần bồn rửa.
Nàng đứng yên không động đậy, thu mọi cảnh tượng trong phòng vào mắt trước khi thở ra một hơi và đặt vali xuống. Trong khi làm thế, nàng nhìn thấy mảnh giấy Paul đã viết cho nàng, đặt dựng trên bàn. Nàng với lấy nó rồi chậm chạp ngồi xuống mép giường. Trong căn phòng yên tĩnh nơi đã chứng kiến tình yêu của họ, nàng đọc những dòng anh đã viết buổi sáng hôm trước.
Đọc xong, Adrienne hạ mảnh giấy xuống và ngồi yên bất động, nghĩ về anh khi anh đang viết. Rồi, sau khi gấp mảnh giấy lại cẩn thận, nàng để nó vào vali cùng chiếc vỏ ốc xà cừ. Vài giờ sau, khi Jean về đến nơi, Adrienne đang tựa mình vào hàng lan can trên hiên sau, lại nhìn về phía bầu trời.
Jean vẫn cởi mở và vui vẻ như thường lệ, mừng rỡ khi gặp Adrienne, mừng vì được trở về nhà, và nói luôn miệng về kỳ cuối tuần cùng khách sạn cũ kỹ ở Savannah nơi cô đã ở. Adrienne để Jean kể chuyện mà không xen vào, rồi sau bữa tối, nàng nói với Jean là muốn đi dạo trên bờ biển. May thay, Jean từ chối lời mời đi dạo cùng nàng.
Khi nàng trở lại, Jean đang dỡ đồ trong phòng, và Adrienne tự pha cho mình một tách trà nóng rồi đến ngồi gần lò sưởi. Trong lúc đang đung đưa trên ghế, nàng nghe tiếng Jean bước vào bếp.
“Cậu đâu rồi?” Jean gọi.
“Trong này,” Adrienne trả lời.
Một lát sau Jean xuất hiện. “Hồi nãy cậu có nghe tiếng ấm trà reo không?”
“Tớ vừa pha một tách đấy.”
“Cậu uống trà từ bao giờ thế?”
Adrienne bật cười nhưng không trả lời.
Jean ngồi xuống chiếc ghế bập bênh bên cạnh nàng. Bên ngoài, mặt trăng đang lên, tỏa ánh sáng vằng vặc khiến bờ cát như rực lên một thứ sắc màu của đồ gốm cổ xưa.
“Tối nay cậu có vẻ trầm ngâm quá,” Jean nói.
“Xin lỗi,” Adrienne nhún vai. “Tớ chỉ hơi mệt thôi. Chắc là tớ muốn về nhà rồi.”
“Chắc chắn rồi. Vừa rời khỏi Savannah là tớ đã đếm từng dặm đường về nhà rồi, nhưng ít nhất là đường không đông lắm. Không phải mùa du lịch mà.”
Adrienne gật đầu.
Jean ngả người tựa vào ghế. “Mọi việc với Paul Flanner có ổn không? Tớ hy vọng cơn bão không phá hỏng chuyến đi của anh ta.”
Nghe đến tên anh khiến cổ họng Adrienne nghẹn lại, nhưng nàng vẫn cố gắng tỏ vẻ bình thản. “Tớ không nghĩ cơn bão làm phiền anh ta chút nào đâu,” nàng nói.
“Kể tớ nghe đi nào. Nghe giọng, tớ có ấn tượng là anh ta có vẻ cứng nhắc.”
“Không, không hề. Anh ta... tốt lắm.”
“Phải ở một mình với anh ta cậu có thấy bất tiện không?”
“Không. Sau khi tớ quen rồi thì không sao cả.”
Jean đợi xem Adrienne có nói thêm gì không, nhưng nàng chẳng nói gì nữa.
“Ừm... thế thì tốt,” Jean nói tiếp. “Và cậu không gặp khó khăn gì khi gia cố ngôi nhà chứ?”
“Không.”
“May quá. Tớ rất biết ơn cậu đã làm việc đó hộ tớ. Tớ biết là cậu đã mong có một kỳ cuối tuần yên tĩnh, nhưng có lẽ trời không chiều chúng ta, nhỉ?”
“Ừ, chắc vậy rồi.”
Có lẽ cách nàng nói câu đó đã thu hút ánh nhìn của Jean, nét tò mò hiện rõ trên mặt cô. Đột nhiên cảm thấy cần không gian riêng, Adrienne uống nốt tách trà.”
“Thế này thật không phải với cậu, Jean ạ,” nàng nói, cố gắng hết sức để giọng mình nghe thật tự nhiên. “Nhưng tớ nghĩ tớ phải đi nghỉ đây. Tớ thấy mệt rồi, mà ngày mai còn phải lái xe đường dài nữa. Tớ mừng là cậu đi đám cưới vui vẻ như thế.”
Jean khẽ nhướng mày khi thấy bạn mình đột ngột kết thúc buổi tối ở đây.
“À... ừ, cám ơn cậu,” cô nói. “Chúc ngủ ngon.”
“Chúc ngủ ngon.”
Adrienne có thể cảm thấy ánh nhìn lo lắng của Jean hướng về mình, ngay cả khi nàng bước lên cầu thang. Sau khi mở cửa căn phòng màu xanh, nàng cởi bỏ quần áo và bò lên giường trong trạng thái khỏa thân và cô đơn.
Nàng ngửi thấy mùi của Paul trên chăn gối, và cứ vô thức miết tay lên ngực trong khi vùi mình trong mùi hương đó, cố chống chọi lại cơn buồn ngủ cho đến khi không thể chống cự hơn được nữa. Sáng hôm sau khi tỉnh dậy, nàng pha một ấm cà phê rồi dạo một vòng trên bờ biển.
Nàng đi qua hai cặp tình nhân khác trong nửa giờ đi dạo bên ngoài. Một làn không khí ấm áp đã tràn lên hòn đảo, và giờ nàng biết sẽ còn có thêm nhiều người nữa đổ ra bờ biển để hưởng một ngày đẹp trời.
Giờ này chắc Paul đã đến phòng khám, và nàng tự hỏi không biết trông nó thế nào. Nàng đã tưởng tượng trong đầu một cảnh tượng giống những gì đã xem trong một chương trình nào đó về thiên nhiên – một dãy nhà được xây dựng vội vã giữa rừng rậm trùng trùng, phía trước là con đường đất ngoằn ngoèo đầy vết xe, tất cả trên nền tiếng líu lo của những loài chim kỳ lạ - nhưng nàng ngờ rằng sự thật sẽ không như mình tưởng tượng. Nàng tự hỏi liệu anh đã nói chuyện với Mark chưa và cuộc gặp gỡ diễn ra như thế nào, và liệu Paul có đang hồi tưởng lại cuối tuần vừa qua trong đầu như nàng hiện giờ hay không.
Căn bếp không có người khi nàng quay lại. Nàng thấy âu đựng đường để mở cạnh máy pha cà phê và một chiếc tách rỗng bên cạnh. Nàng thấy tiếng ai đó đang ngâm nga hát trên gác.
Adrienne đi theo âm thanh đó, và khi lên đến tầng hai, nàng thấy cánh cửa căn phòng màu xanh hơi hé mở. Adrienne tiến lại gần hơn, đẩy cánh cửa mở rộng ra, và thấy Jean đang cúi người kéo phẳng góc cuối cùng của tấm ga trải giường. Đám chăn đệm cũ, lớp chăn đệm đã từng bao bọc nàng và Paul lại bên nhau, đã bị vứt thành đống trên sàn nhà.
Adrienne nhìn trân trân vào đống chăn đệm, biết nàng thật lố bịch khi tỏ ra bực bội, nhưng đột nhiên lại nhận ra rằng sẽ phải mất ít nhất một năm nữa nàng mới được ngửi thấy mùi của Paul. Nàng hít vào thật khó khăn, cố gắng gồng mình để không khóc.
Jean ngạc nhiên quay lại khi nghe tiếng nàng, mắt mở to ra.
“Adrienne?” cô hỏi. “Cậu không sao chứ?”
Nhưng Adrienne không thể trả lời. Tất cả những gì nàng làm được chỉ là đưa hai tay lên ôm mặt, biết rằng từ lúc đó trở đi, nàng sẽ đánh dấu từng ngày trên lịch cho đến khi Paul trở về.
“Paul,” Adrienne trả lời con gái mình, “đang ở Ecuador.” Nàng nhận ra giọng mình bình tĩnh đến đáng ngạc nhiên.
“Ecuador,” Amanda nhắc lại. Các ngón tay của cô gõ lên bàn trong khi cô nhìn chăm chăm mẹ mình. “Vì sao ông ấy không trở lại?”
“Ông ấy không thể.”
“Tại sao chứ?”
Thay vì trả lời, Amanda mở nắp chiếc hộp đựng thư. Từ trong hộp, nàng kéo ra một mảnh giấy mà Amanda trông như đã được xé từ một cuốn vở học sinh, được gấp gọn, và đã ố vàng theo năm tháng, Amanda nhìn thấy tên mẹ mình viết trên mặt trước.
“Trước khi nói cho con biết,” Adrienne tiếp tục, “mẹ muốn trả lời câu hỏi kia của con.”
“Câu hỏi nào hả mẹ?”
Adrienne mỉm cười. “Con đã hỏi liệu mẹ có chắc rằng Paul yêu mẹ không.” Nàng đẩy mảnh giấy sang bên kia bàn cho con gái. “Đây là lời nhắn ông ấy để lại cho mẹ vào ngày ông ấy đi.”
Amanda do dự cầm lấy mảnh giấy, rồi chậm chạp mở nó ra. Với mẹ đang ngồi bên kia chiếc bàn, cô bắt đầu đọc.