Vợ người du hành thời gian - Phần I - Chương 04 phần 4

Thứ Tư, 27/6/1984 (Clare 13 tuổi)

CLARE: Tôi đang đứng trong đồng cỏ một buổi chiều muộn cuối tháng Sáu; chỉ vài phút nữa thôi sẽ đến giờ ăn tối. Nhiệt độ đang giảm dần. Mười phút trước bầu trời còn xanh trong và khắp đồng cỏ bao trùm trong khí nóng, có cảm giác như vạn vật cong cong, như đang đứng dưới mái vòm thủy tinh khổng lồ, tất cả tiếng động bị nuốt chửng trong cái nóng giữa điệp khúc côn trùng vo ve. Tôi ngồi trên chiếc cầu treo nhỏ xíu ngắm những con nhện nước đang trượt trên mặt ao tù nhỏ phẳng lặng, và nghĩ về Henry. Hôm nay không phải ngày anh ấy đến; lần tới cách đây 22 ngày nữa. Trời đã mát mẻ hơn nhiều. Henry đang khiến tôi hoang mang bối rối. Suốt cả đời này tôi đã chỉ coi Henry như một phần nhỏ trong cuộc sống của mình; mặc dù anh ấy là một bí mật, một điều lôi cuốn diệu kì, Henry cũng như một phép màu mà chỉ đến gần đây tôi mới nhận ra hầu hết các cô gái không có một Henry cho mình, nếu có hẳn họ đã rất giỏi che giấu. Có cơn gió đang thổi tới; những ngọn cỏ cao dập dềnh trong gió, tôi nhắm mắt lại và nghe như tiếng sóng biển (điều mà tôi chưa từng trải nghiệm trước đó, trừ trên ti vi). Khi mở mắt ra, bầu trời đã ngả vàng rồi lại xanh. Henry nói anh ấy đến từ tương lai. Khi còn nhỏ tôi đã chẳng thấy có vấn đề gì với chuyện đó, tôi đã chẳng biết nó có nghĩa gì. Giờ thì tôi tự hỏi liệu tương lai có phải là một nơi chốn, hay ít nhất là giống như một nơi chốn, mà tôi có thể đi tới bằng một cách nào đó khác với chỉ đơn thuần là già đi. Tôi tự hỏi liệu Henry có thể mang tôi đến đó. Khu rừng đen sẫm những ngọn cây cong dạt xuống mặt đất và cúi chào. Côn trùng đã thôi ngân nga và những cơn gió đang san bằng tất cả, những ngọn cỏ dạt phẳng lì, những ngọn cây đang kẽo kẹt rên rỉ. Tôi sợ tương lai; nó giống như một thế giới khổng lồ đang đợi tôi đến. Henry nói anh ấy biết tôi ở tương lai. Những đám mây đen to lớn đang di chuyển lại gần đằng sau những ngọn cây, chúng ập đến quá bất ngờ khiến tôi bật cười khúc khích, chúng giống như những con rối, mọi thứ đang ào ào tấp về phía tôi, cả những tràng sấm dài và thấp. Tôi đột ngột nhận ra mình đang đứng mỏng manh thẳng tắp giữa đồng cỏ, nơi mọi thứ đang cúi rạp người xuống trước cơn giông. Nên tôi cũng ngả mình xuống mong trốn được con mắt của cơn bão lớn đang cuồn cuộn bước tới. Tôi ngửa mặt nhìn những giọt nước bắt đầu được thả xuống từ bầu trời. Quần áo của tôi ướt nhẹp trong thoáng chốc và đột nhiên tôi cảm thấy như Henry đang ở đây, một cảm giác mãnh liệt cần có Henry, cần được anh ấy vòng tay qua ôm lấy. Đối với tôi, cơn mưa này chính là Henry. Tôi đang một mình và đang muốn có anh ấy.

Chủ nhật, 23/9/1984 (Henry 35 tuổi, Clare 13 tuổi)

HENRY: Tôi đang ở khoảng rừng thưa, trong đồng cỏ một buổi sáng, ngay trước khi mặt trời ló dạng, một ngày cuối hè. Tất cả hoa và cỏ đã cao quá ngực. Trời lạnh giá và tôi đang một mình. Tôi lội qua những đám cây tìm đường đến hộp quần áo, mở nó và lấy ra chiếc quần jeans xanh và áo sơ mi trắng kèm đôi dép lê. Tôi chưa từng nhìn thấy những món đồ này trước đó, nên tôi không biết mình đang ở thời điểm nào. Clare cũng đã để lại cho tôi một chút đồ ăn: bơ lạc, sandwich mứt được gói cẩn thận trong giấy nhôm; một quả táo và túi khoai tây chiên. Có thể đây là một trong những bữa ăn trưa ở trường của Clare. Tôi nghĩ ngay đến cuối thập niên 70 hoặc đầu thập niên 80. Tôi ngồi xuống một tảng đá và ăn, và liền cảm thấy khá hơn rất nhiều. Mặt trời đang ló dạng. Khắp đồng cỏ ngập trong màu xanh, cam, và màu hồng. Những cái bóng dần được kéo dài ra, rồi ngày đã tới. Không có chút dấu hiệu của Clare. Tôi bò vào trong bụi cây, cuộn tròn trên nền đất cho dù nó vẫn còn đang ẩm hơi sương - và ngủ.

Khi tôi thức dậy, mặt trời đã lên cao và Clare đang ngồi cạnh tôi đọc sách. Cô ấy mỉm cười và nói, “Bình minh trong đầm lầy. Những con chim đang hót, ếch đang kêu, và đã đến giờ thức dậy.”

Tôi lầm bầm dụi mắt. “Chào Clare. Hôm nay là ngày bao nhiêu?”

“Chủ Nhật, 23 tháng 9, năm 1984.”

Clare 13 tuổi. Độ tuổi khó khăn và kì lạ, nhưng không khó khăn như những gì chúng tôi đang trải qua ở hiện tại. Tôi ngồi dậy và ngáp. “Clare, em có thể chạy vào nhà lén mang ra cho anh cốc cà phê được không?”

“Cà phê?” Clare nói như thể cô ấy chưa bao giờ nghe đến tên thứ chất này. Lớn lên, cô ấy nghiện món đồ uống này chẳng kém gì tôi.

“Được rồi, em sẽ thử.” Cô ấy chậm rãi đứng dậy. Đây là năm Clare cao lên rất nhanh. Trong năm ngoái, cô ấy đã cao hơn 12 centimet và cô ấy vẫn chưa quen với cơ thể mới của mình. Ngực, chân và hông, tất cả mới được đúc thêm vào. Tôi cố không nghĩ đến nó khi nhìn cô ấy bước đi trên con đường mòn trở vào nhà. Tôi liếc qua cuốn sách cô ấy đang đọc. Một tác phẩm của Dorothy Sayers mà tôi chưa đọc. Tôi đang ở trang 33 khi cô ấy quay lại. Cô ấy mang theo một cái bi đông, vài chiếc cốc, một tấm mền và vài cái doughnut. Mùa hè đầy nắng đã để lại tàn nhang trên mũi Clare, và tôi phải cưỡng lại ý muốn luồn bàn tay mình vào mái tóc của cô ấy, nó xõa dài xuống tay trong khi cô ấy trải tấm mền ra.

“Chúa phù hộ cho em.” Tôi nhận lấy chiếc bi đông như thể nó chứa bí tích. Chúng tôi ngồi xuống tấm mền. Tôi đá đôi dép lê ra, rót một cốc cà phê và đưa lên môi. Nó đắng và đặc khủng khiếp. “Ôi trời! Đây là nguyên liệu tàu vũ trụ hả, Clare?”

“Quá đặc sao?” Clare lộ vẻ buồn rầu, và tôi phải nhanh chóng khen ngợi cô ấy.

“Có lẽ không có gì gọi là quá đặc, nhưng món này cũng khá đặc đấy. Dù vậy, anh thích nó. Em tự pha hả?”

“Phải. Em chưa từng pha cà phê bao giờ, lại đúng lúc Mark bước vào, khiến em phân tâm, nên có lẽ em đã pha không đúng cách.”

“Không, nó rất ổn.” Tôi thổi cà phê cho nguội và tu ừng ực. Tôi cảm thấy khá hơn ngay lập tức và rót thêm một li khác.

Clare đỡ lấy chiếc bi đông từ phía tôi. Cô ấy tự rót cho mình chừng nửa phân cà phê và cảnh giác đưa lên miệng. “Chà”, cô ấy nói. “Món này dở tệ. Vị của nó lúc nào cũng thế này sao?”

“Thường thì nó nhạt hơn. Em thích uống cà phê với thật nhiều kem và đường.”

Clare đổ cốc cà phê của mình xuống đồng cỏ và cầm doughnut lên. Rồi cô ấy nói, “Anh đang biến em thành kẻ dở người.”

Tôi không có câu trả lời sẵn cho câu nói này, vì ý nghĩ đó chưa từng xuất hiện trong tôi. “Hừm, anh đâu có làm thế.”

“Có?”

“Không có.” Tôi dừng lại. “Ý em là sao khi bảo anh biến em thành một kẻ dở người? Anh chẳng biến em thành gì cả.”

“Như cách anh nói với em rằng em thích uống cà phê với kem và đường trước cả khi em kịp thử nó. Làm sao em có thể biết em thực sự thích như vậy hay vì anh đã nói em thích như vậy?”

“Nhưng Clare ạ, đó là sở thích cá nhân. Em phải có khả năng tự nhận ra mình thích cà phê như thế nào bất kể anh có nói gì hay không. Hơn nữa, chẳng phải em là người luôn đòi anh phải kể cho em nghe về tương lai sao?”

“Biết về tương lai khác với chuyện bị nói em thích gì”, Clare nói.

“Tại sao? Tất cả đều là tự do ý muốn.”

Clare cởi giày và tất. Cô ấy nhét tất vào trong giày rồi đặt chúng ngay ngắn bên rìa tấm mền. Rồi cô ấy nhặt đôi dép lê của tôi và đặt chúng bên cạnh giày của mình, như thể tấm mền là một chiếc tatami. “Em nghĩ tự do ý muốn là tội lỗi.”

Tôi suy nghĩ rồi nói, “Không, tại sao tự do ý muốn lại bị giới hạn bởi đúng và sai? Ý anh là, em vừa quyết định, bằng sự tự do ý chí cá nhân, để cởi giày ra. Nó không có gì quan trọng, không ai bận tâm nếu em có đi giày hay không, và nó không có gì là tội lỗi, hay có đạo đức cả; nó không ảnh hưởng đến tương lai, nhưng em đã thực hiện sự tự do của mình.”

Clare nhún vai. “Nhưng đôi khi anh nói cho em biết điều gì đấy và em có cảm giác như tương lai đã có sẵn ở đó. Như thể tương lai của em đã diễn ra và em không thể làm gì với nó.”

“Đó gọi là thuyết định mệnh”, tôi nói. “Anh luôn trăn trở với nó.

Trí tò mò của Clare đã bị kích thích. “Tại sao?”

“Nếu em đã cảm thấy bị bó buộc khi nghĩ đến tương lai của mình đã được định trước, thì hãy hình dung xem anh sẽ cảm thấy thế nào. Anh không ngừng dằn vặt với thực tế rằng anh không thể thay đổi bất cứ điều gì, cho dù anh đang ở ngay đó, nhìn nó diễn ra.

“Nhưng Henry, anh có thay đổi sự việc! Anh đã viết ra những thứ để em có thể đưa cho anh vào năm 1991 về đứa bé bị hội chứng Down. Cả danh sách nữa. Nếu không có danh sách, em sẽ không biết khi nào ra gặp anh. Anh không ngừng thay đổi sự việc.”

Tôi mỉm cười. “Anh chỉ có thể tác động đến những việc đã diễn ra. Anh không thể, ví dụ như, đảo ngược sự thật rằng em vừa cởi giày ra.”

Clare cười. “Tại sao anh bận tâm em có cởi chúng ra hay không?”

“Anh không bận tâm. Nhưng nếu như có, thì bây giờ nó cũng đã là một phần lịch sử không thể thay đổi của thế giới và anh không thể làm gì với nó. Tôi tự lấy cho mình một cái doughnut Bismarck loại yêu thích của tôi. Lớp kem đã bị chảy ra đôi chút dưới ánh nắng, nó dính vào các ngón tay tôi.

Clare ăn hết bánh doughnut của mình, vén gấu quần jeans và ngồi khoanh chân lại. Cô ấy duỗi cổ và nhìn tôi phiền muộn. “Giờ thì anh khiến em lo lắng. Em có cảm giác như mỗi lần em hỉ mũi là một lần em tạo ra sự kiện lịch sử nào đó.”

“Đúng là như vậy.”

Cô ấy đảo mắt. “Đối lập với thuyết định mệnh là gì?”

“Hỗn loạn.”

“Ồ. Em không nghĩ mình thích như vậy. Anh có thích như vậy không?”

Tôi cắn một miếng lớn Bismarck và cân nhắc về sự hỗn loạn. “Có và không. Hỗn loạn tức nhiều tự do hơn; thậm chí hoàn toàn tự do. Nhưng không có ý nghĩa. Anh muốn được tự do quyết định hành động nhưng anh cũng muốn hành động của mình phải có ý nghĩa.”

“Nhưng, Henry, anh đang quên mất Chúa - tại sao không thể có một vị Chúa trời tạo ra ý nghĩa của vạn vật?” Clare trầm ngâm thành khẩn và nhìn xa xa về phía bên kia đồng cỏ trong khi nói.

Tôi ném phần còn lại của chiếc Bismarck vào miệng, nhai chậm rãi để tranh thủ thời gian. Mỗi khi Clare nhắc đến Chúa, lòng bàn tay tôi lại đổ mồ hôi và dâng lên cảm giác muốn chạy trốn hay biến mất.

“Anh không biết, Clare ạ. Đối với anh, mọi việc có vẻ quá ngẫu nhiên và vô nghĩa để có thể tin rằng Chúa tồn tại.”

Clare xiết chặt hai tay quanh đầu gối. “Nhưng anh vừa nói mọi việc đều đã được định từ trước.”

“Hừm”, tôi chỉ ậm ừ. Tôi chụp lấy mắt cá của Clare, kéo chân cô ấy lại gần, đặt lên đùi tôi và cứ giữ như thế. Clare cười và nằm ngửa người ra, chống hai khuỷu tay xuống đất. Đôi bàn chân lạnh giá của Clare nằm gọn trong tay tôi; chúng rất hồng và sạch sẽ. “Được rồi”, tôi nói, “Xem nào. Những lựa chọn chúng ta có ở đây là một thế giới khép kín, nơi quá khứ, tương lai và hiện tại cùng tồn tại một lúc, nơi mọi thứ đều đã diễn ra. Thế giới hỗn độn, nơi bất kể điều gì cũng có thể xảy ra, không thể dự báo trước bởi vì chúng ta không thể biết hết tất cả các hằng số; và một thế giới Cơ Đốc, nơi Chúa tạo ra vạn vật và chúng đều có ý nghĩa riêng của mình, nhưng chúng ta vẫn có sự tự do ý muốn của mình. Đúng không?”

Clare ngoe nguẩy ngón chân về phía tôi. “Chắc vậy.”

“Em ủng hộ thế giới nào ?”

Clare im lặng. Sự thiết thực và cảm giác lãng mạn cô ấy dành cho Chúa và Đức mẹ, ở độ tuổi 13, gần như cân bằng. Nếu là một năm trước cô ấy sẽ nói, Chúa, mà không ngần ngại. Trong 10 năm nữa, cô ấy sẽ ủng hộ cho thuyết định mệnh, và 10 năm sau đó nữa Clare sẽ tin rằng thế giới là tùy tiện, rằng nếu Chúa tồn tại, thì Ngài không nghe những lời cầu nguyện của chúng ta, rằng nguyên do và hệ quả là không tránh khỏi và tàn độc, nhưng vô nghĩa. Còn sau đó nữa? Tôi không biết. Nhưng vào lúc này, Clare đang đứng trên ngưỡng cửa của tuổi trưởng thành với niềm tin ở một bên và sự hoài nghi một bên khác, tất cả những gì cô ấy có thể làm là cố gắng tráo chúng qua lại, hoặc cùng bóp nghẹt chúng cho đến khi chúng vỡ tan. Cô ấy lắc đầu. “Em không biết. Em muốn có Chúa. Có được không?”

Tôi cảm thấy mình như một kẻ khốn. “Dĩ nhiên là được. Đó là niềm tin của em.”

“Nhưng em không chỉ muốn tin, em muốn nó là sự thật.”

Tôi đưa ngón tay cái chạy dọc gan bàn chân của Clare, và cô ấy nhắm mắt lại.

“Em và Thánh Thomas Aquinas đều muốn vậy”, tôi nói.

“Em đã nghe nói về ông ấy”, Clare nói như cô ấy đang kể về ông bác yêu thích lâu ngày không gặp, hay về một MC chương trình ti vi cô ấy thường xem khi còn nhỏ.

“Ông ấy muốn có trật tự, có lí do và có Chúa. Ông ấy sống ở thế kỉ XIII, từng giảng dạy ở Đại học Paris. Aquinas tin vào cả Aristotle và các thiên thần.”

“Em yêu các thiên thần” Clare nói. “Họ thật đẹp. Em ước gì mình cũng có cánh để bay lượn khắp nơi và ngồi trên những đám mây.”

“Ein jeder Engel ist schrecklich.”

Clare thở dài, tiếng thở dài khe khẽ hàm ý Em không biết tiếng Đức, nhớ chứ? “Hả?”

Mọi thiên thần đều đáng sợ. Đó là một phần trong loạt thơ có tên gọi Bi khúc Duino, của nhà thơ Rilke. Ông ấy là một trong các nhà thơ yêu thích của chúng ta.”

Clare cười. “Anh lại làm vậy nữa!”

“Làm gì?”

“Nói cho em biết em thích gì.” Clare dùng chân xoáy vào đùi tôi. Không suy nghĩ, tôi đặt chân cô ấy lên vai, nhưng rồi nhận nó quá riêng tư nên đã nhanh chóng đặt chúng trở lại vào lòng bàn tay và giữ trên cao bằng một tay trong khi cô ấy nằm ngả lưng xuống đất, thánh thiện và ngây thơ với mái tóc xõa ra như mưa dông quanh đầu trên tấm mền. Tôi cù léc chân cô ấy. Clare khúc khích cười và quẫy ra khỏi tay tôi như một chú cá, cô ấy bật dậy chạy vòng quanh khoảng rừng thưa, mỉm cười nhìn tôi như để thách tôi đuổi theo và bắt lấy. Tôi chỉ mỉm cười đáp trả, cô ấy quay trở lại tấm mền và ngồi xuống cạnh tôi.

“Henry?”

“Sao vậy?”

“Anh đang khiến em thay đổi.”

“Anh biết.”

Tôi quay sang nhìn Clare và chỉ trong một khoảnh khắc, tôi quên rằng cô ấy còn trẻ và lúc này đang là quá khứ nhiều năm về trước; tôi nhìn thấy Clare, người vợ hiền của tôi, ẩn hiện lên trong khuôn mặt của cô gái trẻ; tôi không biết phải nói thế nào với Clare này, người vừa già, vừa trẻ và khác biệt so với các cô gái khác, người biết rằng sự khác biệt có thể là khó khăn. Nhưng Clare không có vẻ như đang đợi một câu trả lời. Cô ấy nghiêng người tựa vào tay tôi và tôi vòng tay qua ôm vai cô ấy.

“Clare!” Phía bên kia đồng cỏ yên ắng, bố của Clare đang thét gọi tên cô ấy. Clare nhảy dựng dậy, chụp lấy giày và tất.

“Đến giờ đi lễ nhà thờ”, cô ấy nói, đột nhiên lo lắng.

“Tạm biệt em”, tôi nói. Tôi vẫy tay và cô ấy mỉm cười, lẩm bẩm nói lời tạm biệt rồi chạy dọc theo con lộ nhỏ và biến mất. Tôi nằm dưới ánh nắng một lúc, tự phân vân về Chúa, đọc Dorothy Sayers. Sau khoảng một giờ đồng hồ, tôi cũng biến mất, chỉ còn lại tấm mền và quyển sách, những chiếc cốc cà phê và quần áo, để chứng tỏ chúng tôi đã ở đó.

Hãy để lại chút cảm nghĩ khi đọc xong truyện để tác giả và nhóm dịch có động lực hơn bạn nhé <3