Vợ người du hành thời gian - Phần I - Chương 09 phần 1
Giáng sinh, ba
Thứ Ba, thứ
Tư, thứ Năm, 24, 25, 26/12/1991 (Clare 20 tuổi, Henry 28 tuổi)
CLARE: 8 giờ 32
phút sáng ngày 24 tháng Mười Hai, tôi và Henry đang trên đường đến biệt thự Sáo
Bắc Mỹ cho kỳ nghỉ Giáng Sinh. Hôm nay là một ngày sáng đẹp, ở Chicago lúc này
không có tuyết, nhưng ở Nam Haven, tuyết rơi dày sáu inch. Trước khi lên đường,
Henry đã dành thời gian bảo trì xe, kiểm tra lốp và nhìn cả vào đầu máy. Tôi
không nghĩ anh ấy biết mình đang nhìn gì một chút nào. Xe của tôi là một chiếc
Honda Civic năm 1990 màu trắng đáng yêu, và tôi rất thích nó, nhưng Henry cực
kỳ ghét đi xe, đặc biệt là những chiếc xe nhỏ. Anh ấy là một hành khách khó
tính, lúc nào cũng bám chặt lấy tay vịn trên ghế và đạp thắng mỗi khi chúng tôi
vượt qua xe ai đó. Có lẽ anh ấy sẽ bớt sợ nếu có thể cầm lái, nhưng vì một số
lý do hiển nhiên, Henry không có bằng lái. Vậy nên chúng tôi rong ruổi dọc cao
tốc Indiana trong ngày mùa đông đẹp trời này; tôi thì điềm tĩnh và mong đợi
được gặp gia đình, còn Henry thật vô phương cứu chữa. Chưa kể sáng nay anh ấy
đã không tập chạy; tôi nhận ra rằng Henry cần một lượng lớn hoạt động thân thể
mọi lúc để có thể trở nên vui vẻ. Giống như thể đi chơi cùng chó săn nhỏ. Ở bên
Henry trong thời gian thực thật khác. Khi tôi còn nhỏ, Henry đến rồi đi, và những
lần chúng tôi gặp mặt đều tập trung, kịch tính và đáng lo nghĩ. Có rất nhiều
điều Henry đã chẳng nói cho tôi, và hầu hết mọi thời gian anh ấy không chịu để
tôi lại gần, nên tôi luôn có cảm giác không thỏa mãn mãnh liệt. Khi cuối cùng
cũng tìm được anh ấy ở hiện tại, tôi những tưởng nó cũng sẽ như vậy. Nhưng
không, nó tuyệt hơn nhiều, ở nhiều mặt. Điểm đầu tiên và quan trọng nhất là
thay vì từ chối đụng vào tôi, Henry lại không ngừng chủ động lại gần, hôn tôi
và quan hệ cùng tôi. Tôi cảm thấy như mình đã trở thành một con người khác, một
người được tắm trong hồ nước của dục vọng. Và anh ấy kể cho tôi nghe nhiều thứ.
Bất kể điều gì tôi hỏi anh ấy về bản thân, cuộc sống và gia đình, anh ấy đều kể
cho tôi nghe, với đầy đủ tên, địa chỉ, và ngày tháng. Những điều đã có vẻ kì bí
khi tôi còn là một đứa trẻ giờ đây trở nên hoàn toàn hợp lý. Nhưng điều tuyệt
vời hơn hết thảy là tôi được gặp anh trong khoảng thời gian dài - hàng giờ,
hàng ngày. Tôi biết phải tìm anh ở đâu. Anh ấy đi làm, rồi trở về nhà. Đôi lúc,
tôi mở sổ địa chỉ ra và cứ nhìn đăm đăm vào: Henry DeTamble, 714 Dearborn, lie,
Chicago, IL 60610, 312-431-8313. Họ tên, địa chỉ và số điện thoại. Tôi có
thể gọi điện cho anh. Đây là một phép màu. Tôi cảm thấy như
Dorothy, khi ngôi nhà của cô ấy hạ cánh xuống Oz và thế giới chuyển sang chỉ có
màu trắng và đen. Chúng tôi không còn ở Kansas nữa.
Thực tế, chúng
tôi đang chuẩn bị vào tới Michigan, và có một trạm nghỉ phía trước. Tôi tấp xe
vào bãi đỗ, rồi chúng tôi ra ngoài và duỗi tay chân. Chúng tôi bước vào trong
tòa nhà, có nhiều bản đồ, tờ rơi cho khách du lịch, và một dãy dài những chiếc
máy bán hàng tự động.
“Ồ”, Henry nói.
Anh ấy lại gần và xem xét đống đồ ăn tạp nhạp, rồi bắt đầu đọc bộ sách quảng
cáo. “Hãy đi đến Frankenmuth nhé! 365 ngày Giáng Sinh mỗi năm! Chúa
ơi, anh sẽ tự mổ bụng chỉ sau nửa giờ đồng hồ ở đó. Em có tiền lẻ không?”
Tôi tìm thấy một
nắm tiền lẻ ở đáy túi xách và chúng tôi hân hoan dùng chúng để mua hai lon
Cô-ca, một hộp Good & Plenty, và một thỏi Hershey. Chúng tôi bước trở ra
không khí khô lạnh, tay trong tay. Chúng tôi ngồi trong xe, mở nắp cô-ca và hấp
thu các món đường. Henry nhìn đồng hồ của tôi nói, “Thật suy đồi. Mới chỉ có 9
giờ 15.”
“Một vài phút nữa
sẽ là 10 giờ 15.”
“Ồ phải. Thời
gian ở Michigan sớm hơn 1 tiếng. Thật không tưởng.”
Tôi nhìn anh ấy.
“Mọi thứ đều không tưởng. Em không thể tin anh thực sự đang trên đường đến gặp
gia đình em. Em đã mất biết bao thời gian để che giấu anh khỏi
họ.”
“Chỉ vì yêu mến
em nên anh mới làm thế này. Anh đã dành biết bao thời gian lảng tránh những
chuyến đi đường dài, gặp gỡ gia đình bạn gái vào Giáng Sinh. Việc anh đang làm
cả ba điều một lúc chứng tỏ anh yêu em biết nhường nào.”
“Henry…” Tôi quay
sang phía anh ấy; chúng tôi hôn nhau. Nụ hôn chuyển sang thứ gì đó nhiều hơn
thế khi tôi nhìn thấy qua khóe mắt ba cậu bé còn chưa dậy thì và con chó to lớn
đang đứng cách chúng tôi chỉ vài thước, nhìn chúng tôi với vẻ thích thú. Henry
quay sang để xem tôi đang nhìn gì và cả ba cậu bé mỉm cười rồi ra dấu tán
thưởng. Chúng đi nước kiệu về phía xe tải nhỏ của bố mẹ chúng.
“Nhân tiện, việc
nghỉ ngơi ở nhà em được sắp xếp như thế nào nhỉ?”
“Ồ. Hôm qua Etta
gọi cho em về chuyện đó. Em sẽ ở phòng riêng của em còn anh ở phòng màu xanh.
Chúng ta ở hai đầu hành lang, phòng của bố mẹ em và Alicia ở giữa.”
“Và chúng ta
quyết tâm nghe theo sự sắp xếp này đến khi nào?”
Tôi khởi động xe
và chúng tôi trở lại xa lộ. “Em không biết vì em chưa từng làm việc này bao
giờ. Mark thường đưa các cô bạn gái của anh ấy xuống phòng tập và quan hệ với
họ trên ghế bành trong vài giờ. Tất cả mọi người giả vờ như không biết. Nếu
chuyện trở nên khó khăn, chúng ta lúc nào cũng có thể xuống phòng đọc; em vẫn
thường giấu anh dưới đó mà.”
Henry nhìn ra
ngoài cửa sổ. “Việc này cũng không đến nỗi tệ.”
“Việc gì cơ?”
“Đi đường. Trong
xe. Trên xa lộ.”
“Chao ôi! Tiếp
theo anh sẽ dám đặt chân lên máy bay.”
“Không bao giờ.”
“Paris.
Cairo. London. Kyoto.”
“Không đời nào. Anh luôn tin rằng mình sẽ biến mất khi đang
ở trên máy bay và chỉ có Chúa mới biết anh có thể hiện hình trở lại trên một
con chim đang phóng đi với tốc độ 350 dặm một giờ hay không. Anh sẽ rơi từ trên
trời xuống như Icarus.”
“Thật sao?”
“Chắc chắn anh sẽ không kiểm chứng.”
“Anh có thể đi đến những nơi đó bằng cách đi xuyên thời gian
không?”
“Giả thiết của anh là, nhớ, đây chỉ là giả thiết đặc biệt về
du hành thời gian với tư cách người du hành trải nghiệm Henry DeTamble chứ
không phải giả thiết chung về du hành thời gian đâu nhé.”
“Được rồi.”
“Đầu tiên, anh nghĩ đó là vấn đề não bộ. Anh nghĩ nó rất
giống với chứng động kinh, vì nó có xu hướng xảy ra khi anh bị áp lực, và có
một số tín hiệu vật chất, như đèn chớp, có thể dẫn đến việc du hành. Và vì
những việc như chạy bộ, tình dục và thuốc có thể giúp anh bám trụ lại với hiện
tại. Thứ hai, anh hoàn toàn không có khả năng điều khiển nơi chốn và thời gian
sẽ đến, hay độ dài của mỗi cuộc hành trình, hay khi nào sẽ trở lại. Vậy nên du
lịch thời gian vòng quanh vùng duyên hải miền nam châu Âu hiếm có thể xảy ra.
Nói vậy vì tiềm thức của anh có vẻ can thiệp rất nhiều vào chuyện kiểm soát du
hành, vì anh dành rất nhiều thời gian trong quá khứ của mình, quay trở lại
những sự kiện thú vị hoặc quan trọng, hiển nhiên anh sẽ dành một khoảng thời
gian tương đối để ghé thăm em, mà anh đang rất nóng lòng chờ đợi. Anh có khuynh
hướng đi tới những nơi ngẫu nhiên. Nhưng về cơ bản, anh có xu hướng trở về quá
khứ nhiều hơn là đi tới tương lai.”
“Anh đã đi tới tương lai? Em không biết anh có thể làm vậy.”
Henry trông có vẻ thỏa mãn với chính mình. “Cho đến giờ,
phạm vi của anh dao động trong khoảng 50 năm theo mỗi chiều. Nhưng rất ít khi
anh đi đến tương lai, và anh không nghĩ mình có thể thấy gì hữu ích ở đó. Nó
luôn ngắn ngủi. Và có thể tại vì anh không biết mình đang nhìn gì. Quá khứ kéo
anh lại nhiều hơn. Khi ở trong quá khứ, anh cảm thấy chắc chắn hơn. có lẽ vì
bản thân tương lai ít ổn định hơn? Anh không biết. Anh luôn có cảm giác không
khí loãng hơn ở tương lai: cảm giác khác biệt. Khó hơn để chạy ở đó.” Henry
trầm ngâm nói những điều này, và bất chợt tôi có cảm giác kinh hãi thoáng qua
vì phải ở những nơi, những thời điểm xa lạ, không quần áo, không bạn bè…
“Đó là lý do vì sao chân anh…”
“Như da thuộc.” Lòng bàn chân Henry có những vết chai sạn
dày, như thể chúng đang cố gắng biến thành một đôi giày. “Anh là con quỷ móng
guốc. Nếu có chuyện gì xảy ra với chân anh thì bắn chết anh luôn cho rồi.”
Chúng tôi lái xe trong im lặng một hồi. Xa lộ nhấp nhô, cao
lên rồi hạ xuống, những cánh đồng ngập xác ngô chết vụt qua mặt. Các nông trang
đứng tắm trong ánh nắng mùa đông, những chiếc xe tải nhỏ, xe ngựa kéo và ô tô
xếp dọc trên đường vào nhà. Tôi thở dài. Về thăm gia đình thật là một trải
nghiệm lăn lộn. Tôi nóng lòng muốn gặp Alicia và Etta, tôi lo lắng cho mẹ và
không muốn phải đối mặt với bố và Mark. Nhưng tôi tò mò muốn biết họ sẽ đối mặt
với Henry, cũng như anh ấy sẽ đối mặt với họ như thế nào. Tôi tự hào vì đã giữ
Henry như một bí mật trong suốt thời gian dài như vậy. Suốt 14 năm. Khi bạn là
một đứa trẻ, 14 năm là bất tận.
Chúng tôi đi qua Wal-Mart, Dairy Queen, McDonald’s, nhiều
cánh đồng ngô khác, một vườn cây ăn quả. Vườn dâu tây, vườn cây việt quất cho
khách tự hái. Vào mùa hè, con đường này là một hành lang dài của hoa quả, ngũ
cốc và chủ nghĩa tư bản. Nhưng giờ những cánh đồng đã chết và khô cằn; xe cộ
chỉ biết tăng tốc dọc con đường cao tốc lạnh đầy nắng và lờ đi các bãi đỗ xe
đang vẫy gọi.
Tôi chưa bao giờ nghĩ nhiều về Nam Haven cho tới khi chuyển
đến Chicago.
Nhà của chúng tôi lúc nào cũng như một hòn đảo, nằm trong khu vực tư nhân, bao
quanh bởi đồng cỏ, vườn cây ăn quả, rừng và nông trại, còn Nam Haven chỉ là thị
trấn, như trong Hãy đi đến thị trấn và mua kem nhé. Thị trấn là cửa
hàng tạp hóa, là tiệm dụng cụ đồ bếp, cửa hàng bánh ngọt Mackenzie và cửa hàng
băng đĩa, nhạc phổ ở trung tâm mua sắm Music, cửa hàng ưa thích của Alicia.
Chúng tôi thường đứng trước tiệm ảnh của Appleyard và vẽ lên những câu chuyện
về các cô dâu, các cậu bé sơ sinh và các gia đình đang nở nụ cười khó ưa sau ô
cửa sổ. Chúng tôi đã không nghĩ thư viện trông buồn cười trong vẻ tráng lệ nhái
Hi Lạp của nó, hay đã không thấy việc nấu nướng thật tẻ nhạt và hạn chế, hay
các bộ phim ở Michigan
thật đơn giản. Những suy nghĩ này xuất hiện về sau này, khi tôi đã trở thành
một cư dân của thành phố, một người xa quê khắc khoải ngăn cách chính mình khỏi
những cung cách quê mùa thời tuổi trẻ của cô ấy. Một nỗi luyến tiếc cho cô gái
nhỏ là tôi, người đã yêu những cánh đồng và tin vào Chúa, người đã dành những
ngày nghỉ ốm mùa đông ở nhà đọc Nancy Drew và mút từng giọt thuốc ho vị bạc hà,
người có thể giữ bí mật. Tôi liếc nhìn Henry và thấy anh đã lăn ra ngủ.
Nam Haven, 50 dặm.
Hai mươi dặn, mười hai, ba, một.
Đường Phoenix.
Cao tốc Blue Star.
Và rồi: ngõ Meagram. Tôi với tay sang đánh thức Henry nhưng
anh ấy đã tỉnh từ lâu. Anh ấy mỉm cười lo lắng và nhìn ra cửa sổ tới đường hầm
hun hút những ngọn cây trơ trọi giữa mùa đông trong lúc chúng tôi rầm rập tiến
tới. Khi cánh cửa ló dạng, tôi dò dẫm trong ngăn đựng đồ nhỏ trên xe để tìm
điều khiển, rồi cánh cửa bật ra và chúng tôi đi qua nó.
Căn nhà hiện ra như bật lên từ trang sách. Henry há hốc miệng,
rồi bắt đầu phá lên cười.
“Sao vậy?” Tôi hỏi.
“Anh không nghĩ nó khổng lồ đến thế. Con quái vậy này có tất
cả bao nhiêu phòng?”
“Hai mươi tư”, tôi trả lời anh ấy. Etta đang vẫy tay với
chúng tôi từ cửa sổ đại sảnh trong lúc tôi đi vòng quanh con đường và dừng lại
trước cửa chính. Tóc bà đã bạc nhiều hơn so với lần cuối tôi ở nhà, nhưng mặt
bà đang ửng hồng trong niềm hân hoan. Trong lúc chúng tôi trèo ra khỏi xe, Etta
thận trọng bước xuống những bậc thang phủ băng, bà không mặc áo choàng, chỉ độc
chiếc váy màu xanh nước biển với cổ viền ren, thận trọng giữ thăng bằng cho
thân thể mập mạp trên đôi giày bệt. Tôi chạy lại định đỡ tay bà nhưng bà xua
tôi ra cho đến khi xuống bậc thềm cuối cùng rồi ôm lấy tôi và hôn (tôi ngửi mùi
Noxzema và mùi phấn của Etta một cách hân hoan) trong lúc Henry đứng bên cạnh,
chờ đợi. “Và chúng ta có gì ở đây thế này?” bà nói như thể Henry là cậu bé tôi
mang theo về mà không báo trước. “Etta Milbauer, Henry DeTamble”, tôi giới
thiệu. Tôi nhìn thấy vẻ “Ồ” thoáng qua trên mặt Henry và tôi tự hỏi không biết
anh ấy đã nghĩ bà là ai? Etta cười toét miệng với Henry trong lúc chúng tôi
trèo lên bậc thềm. Henry hạ giọng và hỏi tôi, “đồ đạc chúng ta thì thế nào?”
tôi bảo anh ấy rằng Peter sẽ lo việc đó. “Mọi người đâu hết ạ?” tôi hỏi, Etta
bảo rằng bữa trưa sẽ được chuẩn bị trong 15 phút nữa, chúng tôi có thể cởi áo
khoác ngoài, đi rửa ráy rồi vào dùng bữa. Bà bỏ chúng tôi đứng giữa tiền sảnh
rồi lẩn vào bếp. Tôi quay người, cởi áo khoác và treo nó trong tủ quần áo ở
tiền sảnh. Khi tôi quay người lại Henry đang vẫy tay với ai đó. Tôi liếc nhìn
xung quanh anh ấy và nhận ra Nell đang thò khuôn mặt với cái mũi hếch, to kềnh
ra từ cửa phòng ăn, mỉm cười và tôi chạy lại trao cho bà một nụ hôn sướt mướt,
bà khúc khích cười với tôi, nói, “Một anh chàng đẹp trai đấy, đồ khỉ cái”, rồi
lại lẩn vào phòng trước khi Henry có thể đuổi kịp chúng tôi.
“Nell?” anh ấy đoán và tôi gật đầu. “Không phải bà xấu hổ
đâu, chỉ bận thôi”, tôi giải thích. Tôi dẫn anh ấy tới cầu thang hậu lên tầng
hai. “Anh sẽ ở đây”, tôi bảo anh ấy, mở cửa căn phòng ngủ màu xanh. Anh ấy nhìn
vào trong rồi theo tôi xuống cuối hành lang. “Đây là phòng của em”, tôi bồn
chồn nói và Henry lách qua tôi, đứng giữa tấm thảm trải sàn, chỉ nhìn quanh và
khi anh ấy quay qua tôi, tôi biết anh ấy chẳng nhận ra thứ gì; không có gì
trong căn phòng này có ý nghĩa gì với anh ấy, và con dao của sự nhận thức cứa
sâu hơn vào tôi: tất cả những kỷ vật trong bảo tàng quá khứ này của chúng tôi
giống như những bức thư tình được gửi tới cho một người không biết chữ. Henry
cầm một tổ chim hồng tước lên (đó tình cờ là tổ chim đầu tiên trong rất nhiều
tổ chim mà anh ấy đã đưa cho tôi suốt nhiều năm trời) và nói, “Thú vị đấy”. Tôi
gật đầu, rồi mở miệng nói cho anh ấy biết và anh ấy đặt nó trở lại trên giá,
nói, “Cửa này có thể khóa không?” Tôi vặn ổ khóa và chúng tôi muộn giờ ăn trưa.
HENRY: Tôi điềm tĩnh đi theo Clare xuống cầu thang, qua hành
lang tối lạnh và đi vào phòng ăn. Mọi người đều đã đang dùng bữa. Căn phòng
thấp trần và thoải mái theo kiểu William Morris; không khí ấm áp tỏa ra từ ngọn
lửa bập bùng trong một chiếc lò sưởi nhỏ; và những ô cửa sổ mờ đi vì băng giá
đến nỗi tôi không thể nhìn thấy gì bên ngoài. Clare lại gần một người phụ nữ
gầy với mái tóc đỏ nhạt mà chắc hẳn là mẹ của cô ấy, người đang nghiêng đầu đón
nụ hôn của Clare, người khẽ nhướn người đứng lên để bắt tay tôi. Clare giới
thiệu với tôi bà ấy là “mẹ em” và tôi gọi bà là “cô Abshire”, ngay lập tức bà
nói, “Ồ, nhưng cháu phải gọi ta là Lucille, ai cũng gọi vậy cả”, rồi mỉm cười
mệt mỏi nhưng nồng hậu, như thể bà là mặt trời rực rỡ ở một thiên hà khác.
Chúng tôi ngồi xuống đối diện nhau. Clare ngồi giữa Mark và một người phụ nữ
luống tuổi, bà dì Dulcie; còn tôi ngồi giữa Alicia và một cô gái tóc vàng xinh
đẹp bụ bẫm, người được giới thiệu với cái tên Sharon và có vẻ như đi cùng Mark. Bố của
Clare ngồi ở đầu bàn và ấn tượng đầu tiên của tôi về ông là ông có vẻ cực kỳ
bối rối khi nhìn thấy tôi. Anh chàng đẹp trai ngỗ ngược Mark cũng có vẻ cùng
cảm xúc. Họ đã nhìn thấy tôi trước đó. Tôi tự hỏi mình đã làm gì để họ phải chú
ý, nhớ và giật nảy mình có thoáng chút ác cảm khi Clare giới thiệu tôi, Nhưng
Philip Adshire là một luật sư, một bậc thầy biểu cảm, nên chỉ chưa đến một phút
sau ông ấy đã trở nên nhã nhặn và mỉm cười, đã là chủ nhà, là bố của bạn gái
tôi, một người trung niên đang dần hói với cặp kính rộng bản và một thân thể
cường tráng đã trở nên mềm nhũn và phì nộn, nhung có đôi bàn tay mạnh mẽ, bàn
tay của một người chơi tennis, đôi mắt xám vẫn nhìn tôi cảnh giác bất kể nụ
cười kín đoán. Mark gặp khó khăn trong việc che đậy nỗi bất an của mình, và cứ
mỗi lần tôi bắt gặp ánh mắt của anh ta là anh ta lại nhìn vội xuống đĩa của
mình. Alicia không giống với những gì tôi hình dung; con bé thẳng tính và tốt
bụng, nhưng hơi kỳ quái, bất thần. Con bé có mái tóc sẫm của Philip, giống
Mark, và đường nét của Lucille, tương đối; Alicia trông như thể ai đó tìm cách
dung hòa giữa Clare và Mark nhưng bỏ cuộc nên ném Eleanor Roosevelt vào thay
thế. Philip nói gì đó và Alicia cười, đột nhiên con bé trở nên đáng yêu. Tôi
quay sang con bé, ngạc nhiên khi thấy nó đứng dậy khỏi bàn.
“Em phải đi đến St.Basil’s”, con bé cho tôi biết. “Em có
buổi tập dượt. Anh sẽ đến nhà thờ chứ?” Tôi liếc nhanh sang Clare, cô ấy khẽ
gật đầu, rồi tôi bảo Alicia, “dĩ nhiên rồi”. Mọi người thở dài vẻ… nhẹ nhõm?
Theo tôi nhớ Giáng Sinh là một ngày lễ Cơ Đốc, bên cạnh việc là ngày chuộc tội
của cá nhân tôi. Alicia bỏ đi. Tôi hình dung ra mẹ đang cười vào tôi, cặp lông
mày tỉa cẩn thận của bà nhướn lên cao trước cảnh cậu con trai nửa Do Thái của
bà lạc lõng giữa kỳ Giáng Sinh ở Goyland, và tôi lắc ngón tay về phía bà. Mẹ
mà cũng cười sao, tôi bảo bà. Mẹ đã cưới một người theo đạo Tân
giáo. Tôi nhìn xuống đĩa của mình; nó gồm thịt lợn muối, đậu và lèo tèo
chút salad. Tôi không ăn thịt lợn và tôi ghét đậu.
“Clare nói với chúng tôi cậu là một thủ thư.” Philip dò hỏi,
tôi thừa nhận rằng đúng là vậy. Chúng tôi có một cuộc thảo luận nho nhỏ sôi
động về Newberry và các ủy viên quản trị của Newberry, những người đồng thời là
khách hàng của hãng luật của Philip mà hóa ra có trụ sở tại Chicago
khiến tôi không rõ tại sao gia đình Clare lại sống tận Michigan này.
“Các biệt thự mùa hè”, ông ấy giải thích, rồi tôi nhớ ra
Clare đã nói với tôi rằng bố cô ấy chuyên về di chúc và các khoản quỹ. Tôi
tưởng tượng ra cảnh các bô lão giàu có nằm trên bãi biển tư nhân của họ, tắm
mình trong kem chống nắng, quyết định cắt con cháu ra khỏi di chúc và với tay
lấy điện thoại gọi cho Philip. Rồi tôi nhớ ra đồng nghiệp của bố tôi trong dàn
nhạc giao hưởng Chicago
có một căn nhà đâu đó gần đây. Tôi đề cập đến điều này và tai của mọi người
vểnh lên.
“Cậu có biết ông ấy không?” Lucille hỏi.
“Chắc rồi. Ông ấy và bố cháu ngồi cạnh nhau.”
“Ngồi cạnh nhau?”
“Cô biết đấy, violin chính và thứ.”
“Bố cậu là nghệ
sĩ violin?”
“Vâng.” Tôi quay
sang Clare, người đang nhìn mẹ cô ấy chằm chằm với vẻ đừng làm con xấu
hổ trên mặt.
“Và ông ấy chơi
cho dàn nhạc giao hưởng Chicago?”
“Phải.”
Mặt của Lucillie
ngập trong màu hồng; giờ thì tôi đã biết Clare thừa hưởng vẻ ngượng ngùng của
cô ấy từ ai. “Cậu có nghĩ ông ấy sẽ lắng nghe Alicia chơi nếu chúng tôi đưa cho
ông ấy cuộn băng ghi âm?”
Tôi hy vọng rằng
Alicia chơi cực kì, cực kì giỏi. Mọi người vẫn thường gửi băng thu âm tới cho
bố tôi. Rồi tôi có một ý tưởng khác hay hơn.
“Alicia chơi
vi-ô-lông-cen phải không?”
“Phải.”
“Cô ấy có đang
tìm thầy dạy chăng?”
Philip xen vào,
“con bé đang học với Frank Wainwright ở Kalamazoo.”
“Cháu có thể đưa
băng ghi âm cho Yoshi Akawa. Một trong những học trò của ông ấy vừa nghỉ để
nhận việc ở Paris.” Yoshi là một người tuyệt vời và là vi-ô-lông-cen chính. Tôi
biết ít nhất ông ấy sẽ lắng nghe đoạn băng; bố tôi, người không hề dạy dỗ, sẽ
đơn giản chỉ ném nó đi. Lucille rất hứng khởi; thậm chí cả Philip cũng có vẻ
hài lòng. Clare trông nhẹ nhõm. Mark vẫn ăn. Bà dì Dulcie, nhỏ xíu và có mái
tóc hồng, hoàn toàn mù tịt về vụ trao đổi này. Có lẽ bà bị điếc? Tôi nhìn sang
Sharon, người đang ngồi bên tay trái của tôi và vẫn chưa hé răng nói nửa lời.
Cô ấy có vẻ khổ sở. Philip và Lucille đang thảo luận nên đưa cho tôi cuộn băng nào,
hay có lẽ Alicia nên thu một cuộn băng mới? Tôi hỏi Sharon có phải lần đầu tiên
cô ấy đến đây không và cô ấy gật đầu. Đúng lúc tôi định hỏi tiếp thì Philip hỏi
tôi mẹ tôi làm nghề gì và tôi nháy mắt; tôi nhìn Clare như muốn nói Em
chưa kể cho họ nghe bất cứ điều gì sao?
“Mẹ cháu từng là
ca sĩ. Bà đã qua đời.”
Clare nói khẽ,
“mẹ của Henry là Annette Lyn Robinson”. Chẳng thà cô ấy cứ bảo mẹ tôi là Đức mẹ
đồng trinh Marry; mặt Philip bừng sáng. Lucille khua tay xúc động.
“Thật không thể
tin nổi - thật tuyệt vời! Chúng ta có tất cả các đĩa nhạc của bà ấy…” và một
tràng dài nữa. Nhưng rồi Lucille nói, “cô đã được gặp bà ấy khi cô còn trẻ. Bố
cô đã đưa cô đi xem Madame Butterfly, và người quen của ông dẫn chúng ta ra
phía sau sân khấu khi màn trình diễn kết thúc, chúng ta đi đến phòng thay đồ
của bà, và bà ấy đang ở trong đó, với hàng đống hoa được tặng! Có một cậu bé
trong đó… đó là cậu!”
Tôi gật đầu, cố
tìm lại giọng nói của mình, Clare hỏi, “bác ấy trông như thế nào?”
Mark nói, “Trưa
nay chúng ta sẽ đi trượt tuyết chứ?” Philip gật đầu. Lucille mỉm cười, chìm
trong ký ức. “Bà ấy đẹp tuyệt vời, vẫn đội nguyên tóc giả, một mái tóc đen dài,
và bà ấy đang dùng nó để giỡn với cậu bé, thọc lét cậu bé, và cậu bé nhảy quanh
phòng. Bà ấy có đôi tay thật đáng yêu, bà ấy chỉ cao cỡ ta, rất mảnh mai, và là
người Do Thái, nhưng ta nghĩ bà ấy giống người Ý hơn…” Lucille bất ngờ ngừng
lại và đưa một tay lên che miệng, mắt nhìn vào cái đĩa trống trơn chỉ còn vài
hạt đậu.
“Cậu có theo đạo Do Thái?” Mark thích thú hỏi.
“Tôi đoán vậy, nếu tôi muốn, nhưng chưa ai từng bàn rõ
chuyện này. Mẹ tôi mất khi tôi lên sáu, và bố tôi vốn theo đạo Tân giáo.”
“Trông cậu giống hệt bà ấy”, Lucille nói, và tôi cảm ơn. Đĩa
của chúng tôi được Etta dọn đi, bà hỏi Sharon
và tôi có muốn uống cà phê không. Cả hai chúng tôi đồng thanh nói Có,
dứt khoát đến nỗi cả nhà Clare bật cười. Etta nở một nụ cười mẫu tử với chúng
tôi rồi vài phút sau bà đặt cà phê trước mặt chúng tôi, và tôi nghĩ Cũng
không quá tệ. Mọi người nói chuyện về trượt tuyết, về thời tiết; tất cả
chúng tôi đều đang đứng, Philip và Mark dẫn nhau đi xuống hành lang; tôi hỏi
Clare nếu cô ấy muốn đi trượt tuyết, cô ấy nhún vai và hỏi tôi có muốn đi
không, tôi giải thích rằng tôi không biết trượt và không có hứng học. Cô ấy vẫn
quyết định đi sau khi nghe Lucille nói bà ấy cần người giúp đi ván trượt. Trong
lúc đi lên lầu tôi nghe tiếng Mark nói, “... giống nhau đến lạ thường…” và tôi
mỉm cười một mình.