Vợ người du hành thời gian - Phần I - Chương 09 phần 2

Sau khi mọi người đã rời đi và căn nhà trở nên yên tĩnh, tôi mạo muội đi ra từ căn phòng lạnh lẽo của mình để tìm hơi ấm và chút cà phê. Tôi đi ngang qua phòng ăn, vào tới nhà bếp và đối mặt với một đội quân hùng hậu đồ thủy tinh, đồ bạc, bánh ngọt, rau củ đã gọt, và chảo nóng trong bếp, giống như những gì bạn thấy trong nhà hàng bốn sao. Đứng giữa đống dụng cụ là Nell đang quay lưng lại phía tôi, ngân nga hát Rudolph con tuần lộc mũi đỏ và lắc lư cái eo bự chảng của bà, vẫy ống rút nước sốt với cô gái da đen trẻ đang câm lặng chỉ tay về phía tôi. Nell quay người lại và nở một nụ cười hở răng cửa lớn, nói, “Cậu đang làm gì trong bếp của tôi, cậu Bạn trai?”

“Cháu đang tự hỏi không biết có còn chút cà phê nào dư không?”

“Dư? Cậu nghĩ tôi ủ cà phê suốt ngày cho nó chua lòm? Xùy, con trai, đi ra khỏi đây, tới phòng khách ngồi và rung chuông rồi ta sẽ pha cà phê mới cho cậu. Mẹ cậu đã không dạy cậu chút nào về pha cà phê hả?”

“Thực ra, mẹ cháu không giỏi khoản nấu nướng”, tôi nói với bà, mạo hiểm tiến tới gần trung tâm của con lốc xoáy hơn. Có mùi gì đó thật thơm. “Bác đang nấu gì vậy?”

“Mùi cậu đang ngửi thấy là gà tây của Thompson”, Nell nói. Bà mở cửa lò để cho tôi xem một con gà tây khổng lồ trông cứ như thứ gì đó đã trải qua vụ hỏa hoạn Chicago vĩ đại. Chỉ một màu đen. “Đừng nhìn vẻ ngờ vực như vậy, nhóc. Bên dưới lớp vỏ đó là món gà tây ngon nhất trần đời đấy.”

Tôi sẵn lòng tin bà; mùi của nó thật hoàn hảo. “Gà Tây của Thompson là gì ạ?” Tôi hỏi, và Nell bắt đầu diễn thuyết về món Gà Tây của Thompson huyền diệu, được sáng chế bởi Morton Thompson, một ký giả, vào những năm 1930. Hóa ra quá trình chế biến con quỷ tuyệt diệu này liên quan đến hàng đống công đoạn nhồi nhét, khâu vá và lật trở không ngừng. Nell cho phép tôi ngồi trong bếp trong lúc bà pha cà phê cho tôi và vật lộn lôi con gà tây ra khỏi lò rồi vật nó ngửa bụng lên, sau đó khéo léo nhỏ nước sốt rượu táo lên khắp mình nó trước khi tống nó trở lại hầm ngục. Có 12 con tôm hùm đang bò lổn ngổn trong bể nước lớn bằng nhựa cạnh bồn rửa bát. “Thú cảnh?” Tôi trêu bà, và bà trả lời, “Đó là bữa tối Giáng Sinh của cậu đấy, con trai; cậu muốn chọn một con không? Cậu không ăn chay đấy chứ?” Tôi cam đoan với bà rằng không hề, rằng tôi là một cậu bé ngoan sẽ ăn bất cứ thứ gì được dọn ra trước mặt.

“Ai mà đoán được, trông cậu thật gầy”, Nell nói. “Ta sẽ vỗ béo cậu.”

“Đó là lý do Clare mang cháu đến đây.”

“Hừm”, Nell nói, vẻ hài lòng. “Được rồi. Giờ thì lượn đi để ta có thể tiếp tục công việc, đây.” Tôi nhận lấy ly cà phê bự, thơm phức và hướng về phía phòng khách, nơi có một cây Giáng Sinh khổng lồ và lò sưởi. Trông như một bức tranh quảng cáo cho Pottery Barn. Tôi an tọa xuống chiếc ghế bành màu cam và đang lục chồng báo khi có người nói, “Anh đã lấy cà phê ở đâu thế?” Tôi ngẩng đầu lên và thấy Sharon đang ngồi đối diện trong chiếc ghế bành màu xanh dương hoàn toàn hợp với áo len của cô ấy.

“Xin chào”, tôi nói. “Tôi xin lỗi, tôi đã không thấy…”

“Không sao”, Sharon nói.

“Tôi đã xuống bếp, nhưng tôi nghĩ chúng ta phải dùng chuông, ở đâu đó.” Chúng tôi quét qua căn phòng và đúng là có một cái chuông trên tường.

“Nơi này thật kỳ quái”, Sharon nói. “Chúng tôi đến đây từ hôm qua và tôi cứ thấp thỏm không thôi, cứ sợ dùng sai loại dĩa hay gì đấy…”

“Cô từ đâu đến?”

“Florida.” Cô ấy cười. “Tôi chưa bao giờ biết đến Giáng Sinh trắng cho tới khi vào Harvard. Bố tôi sở hữu một trạm xăng ở Jacksonville. Tôi đã định sau khi tốt nghiệp sẽ quay trở lại đó, anh biết đấy, vì tôi không thích cái lạnh, nhưng giờ có lẽ tôi đã mắc kẹt.”

“Sao lại thế?”

Sharon ngạc nhiên, “Họ chưa nói với anh sao? Mark và tôi sắp kết hôn.”

Tôi tự hỏi liệu Clare có biết chuyện này. Đây có vẻ như là chuyện Clare sẽ nhắc đến nếu có ấy biết. Rồi tôi nhìn thấy viên kim cương trên tay Sharon. “Xin chúc mừng.”

“Có lẽ vậy. Ý tôi là, cảm ơn anh.”

“Cô không chắc chắn sao? Về việc kết hôn?” Sharon thực ra trông có vẻ như đã khóc; khóe mắt cô ấy sưng vù.

“Tôi đang có mang, nên…”

“Điều đó không nhất thiết rằng cô phải…”

“Có, nếu anh theo đạo Cơ Đốc.” Sharon thở dài và rũ người xuống ghế. Thực ra tôi biết một số cô gái theo đạo Cơ Đốc đã đi phá thai và không bị sét đánh, nhưng có vẻ như niềm tin của Sharon ít dễ dãi hơn.

“Chúc mừng. Khi nào…”

“11 tháng Một.” Sharon nhìn thấy sự ngạc nhiên của tôi và nói, “ồ, đứa bé? Tháng 4.” Cô ấy nhăn nhó. “Tôi hy vọng nó sẽ xong trước kỳ nghỉ xuân, bằng không tôi không biết phải lo chuyện học hành như thế nào… dù sao cũng chẳng còn quan trọng nữa…”

“Chuyên ngành của cô là gì?”

“Dự bị Y khoa. Bố mẹ tôi đang rất giận dữ, họ muốn tôi đem nó cho người khác nuôi.”

“Họ không thích Mark sao?”

“Họ thậm chí chưa bao giờ gặp Mark. Đó không phải vấn đề. Chỉ là họ sợ tôi sẽ không theo học Y nữa và sẽ thật lãng phí.” Cửa chính mở ra và những người đi trượt tuyết trở về. Một luồng gió lạnh luồn vào tận phòng khách và ùa qua người chúng tôi. Tôi cảm thấy thoải mái, rồi nhận ra tôi đang bị nướng chín như con gà tây của Nell bởi ngọn lửa trong lò sưởi ở đây. “Mấy giờ dùng bữa tối nhỉ?” tôi hỏi Sharon.

“Bảy, nhưng tối qua chúng tôi đã uống rượu ở đây trước. Khi đó Mark vừa nói với bố mẹ anh ấy, và họ không hẳn đã ôm chầm lấy tôi trong hân hoan khi hay chuyện. Ý tôi là, họ tử tế, anh biết đấy, cách người ta có thể vừa tử tế vừa ác ý. Cứ như tôi có thể tự làm cho mình chửa và Mark chẳng liên quan gì cả ấy…”

Tôi nhẹ nhõm khi thấy Clare bước vào. Cô ấy đang đội một chiếc mũ lưỡi trai màu xanh lá cây với núm tua lớn xõa xuống và chiếc áo trượt tuyết xấu xí màu vàng cùng quần jeans xanh dương. Mặt cô ấy ửng hồng vì cái lạnh và đang mỉm cười. Tóc cô ấy ướt nhẹp và tôi thấy trong lúc cô ấy bước sôi nổi trên tấm thảm Ba Tư khổng lồ bằng đôi chân đi bít tất về phía tôi rằng cô ấy thuộc về nơi này, cô ấy không phải một người lầm lạc, cô ấy chỉ đơn giản chọn cho mình một lối sống khác, và tôi rất mừng vì điều đó. Tôi đứng dậy và cô ấy quàng tay qua người tôi, rồi nhanh chóng quay sang Sharon nói, “Em vừa hay tin! Chúc mừng chị!” rồi ôm lấy Sharon, người đang nhìn tôi qua bờ vai của Clare, sửng sốt nhưng đang mỉm cười. Về sau, Sharon nói với tôi rằng, “Tôi nghĩ anh đã vớ được người tử tế duy nhất ở đây.” Tôi lắc đầu phủ nhận nhưng tôi hiểu điều cô ấy nói.

CLARE: Chúng tôi có một giờ đồng hồ rảnh rỗi trước bữa tối và sẽ không ai để ý nếu chúng tôi biến mất. “Đi nào”, tôi nói với Henry. “Hãy cùng ra ngoài.” Anh ấy rên rỉ.

“Bắt buộc sao?”

“Em muốn chỉ cho anh xem thứ này.”

Chúng tôi mặc áo choàng, ủng, mũ và găng tay rồi lê bước ra ngoài bằng cửa sau. Bầu trời trong vắt, chỉ một màu xanh biếc và tuyết trên đồng cỏ phản chiếu trở lại, có chút sáng hơn. Hai màu xanh gặp nhau ở một đường tối những ngọn cây - điểm bắt đầu vào rừng rậm. Vẫn quá sớm cho những vì sao, nhưng có một chiếc máy bay đang nhấp nháy trên đường nó băng qua không gian. Tôi hình dung ngôi nhà của chúng tôi chỉ là một chấm đen nhỏ xíu được nhìn thấy từ trên máy bay, như một ngôi sao.

“Lối này.” Con đường tới khoảng rừng thưa chìm dưới sáu inch tuyết. Tôi nghĩ tới những lần hì hụi lội trên những vết chân trần để không ai nhìn thấy chúng chạy xuống con đường dẫn tới nhà chính. Giờ thì có dấu vết của những con hươu và vết của một con chó rất lớn.

Gốc của những cái cây chết lởm chởm nhô ra dưới tuyết, gió và tiếng ủng của chúng tôi. Khoảng rừng thưa là một vùng trũng nhẵn nhụi của tuyết xanh; tảng đá là một hòn đảo có đỉnh hình nấm. “Là nó đây.”

Henry đứng thò tay vào túi áo choàng. Anh ấy xoay qua xoay lại, ngắm nhìn. “Vậy ra là nó đây”, anh ấy nói. Tôi tìm trên khuôn mặt anh ấy biểu hiện của sự quen thuộc. Chẳng có gì. “Đã bao giờ anh thấy ký ức ảo giác chưa?” tôi hỏi.

Henry thở dài. “Cả cuộc đời anh là một chuỗi những ký ức ảo giác bất tận.”

Chúng tôi quay lại và bước đi trên chính vết chân của mình, trở về nhà.

Một lát sau:

Tôi đã dặn Henry rằng chúng tôi sẽ đóng bộ khi dùng bữa tối Giáng Sinh nên khi gặp nhau ở hành lang, anh ấy chói lọi trong bộ vét màu đen, sơ mi trắng, cà vạt màu hạt dẻ có móc gài khảm xà cừ. “Chúa ạ”, tôi nói. “Anh đã chải chuốt.”

“Phải”, anh ấy thừa nhận. “Thật thảm hại, phải không?”

“Trông anh rất hoàn hảo, một Thanh Niên Đĩnh Đạc.”

“Trong khi thực tế, anh là một Thủ Thư Cuồng Loạn Hạng Sang. Các bậc phụ huynh, hãy cảnh giác con em mình.”

“Họ sẽ yêu anh.”

“Còn anh yêu em. Đến đây nào.” Henry và tôi đứng trước tấm gương dài cả người ở đỉnh cầu thang, cảm phục chính mình. Tôi đang mặc chiếc váy không dây màu xanh nhạt bằng lụa vốn thuộc về bà ngoại. Tôi có bức ảnh chụp bà lúc đang mặc nó vào đêm giao thừa năm 1941, bà đang mỉm cười, môi bà tối màu son và tay đang cầm điếu thuốc. Người đàn ông trong bức ảnh là anh trai của bà, Teddy, người bị giết ở Pháp sáu tháng sau đó; ông ấy cũng đang cười. Henry đặt tay lên eo tôi và tỏ ra ngạc nhiên trước những lớp gọng áo ngực dưới lần vải lụa. Tôi kể cho anh ấy nghe về bà ngoại. “Bà nhỏ hơn cả em. Nó chỉ đau khi ngồi xuống thôi; đầu của những gọng thép chọc vào hông em.” Henry đang hôn lên cổ tôi khi có tiếng ai đó đằng hắng và chúng tôi rời nhau ra. Mark và Sharon đứng ở ngưỡng cửa phòng Mark; bố và mẹ đã miễn cưỡng đồng ý rằng chẳng có lý do gì họ không nên ở cùng phòng.

“Không phải lúc này, nhé”, Mark nói bằng giọng bà cô khó tính. “Cô cậu chưa rút ra được bài học xương máu nào từ anh chị hả, nhóc?”

“Có chứ”, Henry đáp trả. Luôn luôn phòng bị”. Anh ấy mỉm cười gõ vào túi quần (mà thực ra trống không) rồi chúng tôi lướt xuống dưới nhà trong tiếng cười khúc khích của Sharon.

Mọi người đã uống được vài ly khi chúng tôi ra đến phòng khách. Alicia giơ tay làm dấu hiệu bí mật giữa chúng tôi: Cẩn thận với mẹ, bà đang lên cơn. Mẹ đang ngồi trên ghế trường kỉ, vẻ vô hại, tóc bà được cuốn lên thành búi, cổ đeo dây chuyền ngọc trai, và chiếc váy nhung đào, ống có ren. Bà tỏ vẻ hài lòng khi Mark bước đến ngồi xuống bên cạnh, cười khi anh ấy bày trò với bà, và trong khoảnh khắc tôi đã nghĩ có lẽ Alicia đã nhầm. Nhưng rồi tôi thấy cách mà bố đang nhìn mẹ, và tôi nhận ra chắc hẳn bà đã nói điều gì đó tệ lắm trước khi tôi bước vào. Bố đang đứng cạnh giá để rượu. Ông quay sang tôi, bớt căng thẳng, rót cho tôi một ly Cô-ca, đưa cho Mark chai rượu và một chiếc cốc. Ông hỏi Sharon và Henry uống gì. Sharon xin một ly La Croix, Henry, sau khi cân nhắc một hồi, xin một ly Scotch và nước lọc. Bố pha đồ uống bằng một tay, trợn mắt khi thấy Henry nhẹ nhàng tu sạch ly Scotch.

“Ly nữa chứ?”

“Không ạ, cảm ơn bác.” Tôi biết rằng lúc này Henry muốn cầm cả chai và cốc rồi cuộn tròn trên giường với một cuốn sách trong tay, và rằng anh ấy từ chối ly thứ hai để đỡ cảm thấy ái ngại khi phải xin ly thứ ba, thứ tư nữa. Sharon đang lởn vởn quanh Henry; tôi bỏ mặc họ, đi ngang qua phòng để ngồi cạnh bà dì Dulcie bên ghế gần cửa sổ.

“Ồ, cháu à, đáng yêu làm sao… ta đã không thấy chiếc váy đó kể từ khi Elizabeth mặc nó đến dự tiệc nhà Lichts, tổ chức ở cung Thiên Văn.” Alicia lại chỗ chúng tôi; con bé đang mặc chiếc áo cổ rùa màu xanh tím than với một cái lỗ nhỏ xíu nơi tay áo đang tách ra khỏi vạt trên và một chiếc váy cũ xộc xệch, chân đi tất vải phồng phềnh quanh mắt cá chân như một bà lão. Tôi biết con bé ăn mặc như vậy để chọc tức bố.

“Có chuyện gì với mẹ vậy?” tôi hỏi nó.

Alicia nhún vai. “Mẹ bực chuyện Sharon.”

“Có chuyện gì với Sharon?” bà dì Dulcie hỏi, đọc môi chúng tôi. “Con bé có vẻ tử tế. Theo ta nó còn tử tế hơn Mark.”

“Chị ấy đang có mang”, tôi nói với bà dì Dulcie. “Họ sắp kết hôn. Mẹ cháu nghĩ chị ấy là dân bần hàn, vì chị ấy là người đầu tiên trong gia đình được học đại học.”

Bà dì Dulcie nhìn tôi sắc sảo, và thấy rằng tôi biết điều bà cũng biết. “Lucille, trong tất cả mọi người, phải là người hiểu con bé nhất.” Alicia định hỏi Dulcie ý bà là gì thì chuông báo bữa tối kêu lên và chúng tôi đứng dậy, trong vô thức, nối đuôi nhau về phía nhà ăn. Tôi thì thầm với Alicia, “Có phải mẹ đã say?” Alicia thì thầm đáp lại, “Em nghĩ mẹ đã uống rượu trong phòng trước khi xuống.” Tôi bóp nhẹ tay Alicia; Henry đi chậm lại, chúng tôi cùng nhau bước vào phòng ăn và tìm chỗ ngồi của mình. Bố và mẹ ngồi ở hai đầu bàn ăn, bà dì Dulcie, Sharon và Mark ngồi một phía, Mark ngồi cạnh mẹ, Alicia, Henry và tôi ngồi phía còn lại, Alicia ngồi cạnh bố. Căn phòng tràn ngập nến và những bông hoa nhỏ trôi bồng bềnh trong tô thủy tinh có hoa văn chạm trổ, Etta đã bày ra tất cả đồ đạc và đĩa sứ trên tấm khăn trải bàn của ngoại do các bà sơ Địa Trung Hải thêu. Một buổi tối Giáng Sinh hệt như mọi buổi tối Giáng sinh mà tôi có thể nhớ khác, ngoại trừ Henry đang ngồi cạnh tôi, bẽn lẽn cúi đầu trong lúc bố đang cầu nguyện.

“Lạy cha chúng con ở trên trời, chúng con xin gửi lời cảm tạ trong đêm thánh này vì lòng khoan dung và nhân từ của Người, cho một năm tới khỏe mạnh và hạnh phúc, cho gia đình sung túc và cho những người bạn mới. Xin cảm tạ Người đã gửi con trai của mình trong hình hài một đứa trẻ xuống soi lối và cứu rỗi chúng con, chúng con cảm tạ người vì đứa trẻ mà Mark và Sharon sẽ mang đến gia đình này. Chúng con cầu xin để được trở nên hoàn hảo hơn trong tình yêu thương của mình và kiên nhẫn với nhau. Amen.” Ôi trời, tôi nghĩ. Bố gây chuyện rồi. Tôi liếc nhìn mẹ và thấy bà đang sôi lên sùng sục. Bạn sẽ không thể nào nhận ra nếu không biết tính bà:  bà chỉ ngồi yên không nhúc nhích và nhìn chằm chằm vào dĩa của mình. Cửa phòng ăn mở ra và Etta bước vào với món súp, bà đặt một bát nhỏ trước mặt mỗi người. Tôi bắt gặp ánh mắt của Mark, anh ấy khẽ nghiêng đầu về phía mẹ và nhướn mày, tôi chỉ khẽ gật đầu. Anh ấy hỏi mẹ về vụ thu hoạch táo năm nay và bà trả lời. Alicia và tôi bớt căng thẳng hơn một chút. Sharon đang theo dõi tôi, tôi nháy mắt với chị ấy. Món súp hạt dẻ và củ cải vàng có vẻ như một ý tưởng tồi, cho đến khi bạn nếm món do Nell nấu. “Ồ”, Henry nói, và tất cả mọi người cười, rồi ăn súp của mình. Etta dọn bát súp đi, Nell mang gà tây vào. Nó màu vàng, đang bốc khói và to khổng lồ, chúng tôi hồ hởi ca ngợi, như chúng tôi vẫn làm hằng năm. Nell toét miệng cười, nói, “Thôi mà”, như bà vẫn nói hằng năm. “Ồ, Nell, nó thật hoàn hảo”, mẹ tôi nói trong nước mắt. Nell nhìn bà sắc lẹm rồi quay sang bố tôi, và nói, “Cảm ơn bà, bà Lucille.” Etta lấy cho chúng tôi nhân nhồi, cà rốt ướp bơ đường, khoai tây nghiền, và nước chanh cô, rồi chúng tôi chuyển đĩa của mình cho bố, người sẽ làm đầy chúng bằng thịt gà tây. Tôi nhìn Henry ăn miếng gà tây đầu tiên do Nell nấu: ngạc nhiên, rồi ngất ngây. “Cháu đã nhìn thấy tương lai của mình”, anh ấy tuyên bố, và tôi cứng đơ người. “Cháu sẽ bỏ việc ở thư viện, đến đây sống trong nhà bếp của mọi người và phủ phục kính ngưỡng dưới chân Nell. Hoặc có khi cháu sẽ cưới bác ấy cho tiện.”

“Cậu đến muộn rồi”, Mark nói. “Nell đã kết hôn.”

“Ồ, vậy thì tôi sẽ phải ở dưới chân bác ấy rồi. Tại sao mọi người không béo trên 300 pounds nhỉ?”

“Ta đang trên đường đến đích đó”, bố tôi nói, vỗ vỗ vào cái bụng căng tròn.

“Khi nào già em sẽ nặng 300 pounds và sẽ không phải kéo cây vi-ô-lông-cen đi khắp nơi nữa”, Alicia bảo Henry. “Em sẽ dọn đến Paris sống và chẳng ăn gì ngoài sô-cô-la, em sẽ hút xì-gà, dùng heroin và chỉ nghe nhạc của Jimi Hendrix và The Doors. Phải không, mẹ?”

“Mẹ sẽ đi cùng con”, mẹ tôi nói, rành mạch từng tiếng. “Nhưng mẹ sẽ chỉ nghe Johnny Mathis thôi.”

“Nếu em hút heroin em sẽ không muốn ăn gì nhiều đâu”, Henry đính chính với Alicia, nó đang đăm chiêu nhìn anh ấy. “Hút cần sa ấy.” Bố tôi cau mày. Mark chuyển chủ đề: “Con nghe đài báo tuyết sẽ rơi dày tám inches vào đêm nay.”

“Tám?” chúng tôi đồng thanh.

“Tôi đang mơ về một Giáng Sinh trắng[1]…”, Sharon đánh bạo nói mà không hề nhận thức về tội lỗi.

[1] Nguyên gốc: I’m dreaming of a white Christmas (trích ca khúc White Christmas).

“Hy vọng rằng nó sẽ không trút xuống đầu chúng ta khi đang ở nhà thờ”. Alicia cáu kỉnh nói. “Con rất buồn ngủ cứ mỗi khi xong lễ mi-sa.” Chúng tôi ríu rít bàn về những cơn bão tuyết mà chúng tôi trải qua. Bà dì Dulcie kể cho chúng tôi nghe về lần đầu bị mắc kẹt trong cơn bão tuyết lớn vào năm 1967 ở Chicago. “Ta đã phải bỏ xe ở cao tốc Lake Shore Drive và đi bộ từ Adams đến Belmont.”

“Cháu cũng có lần bị mắc kẹt trong cơn bão tuyết”, Henry nói. “Suýt nữa cháu đông thành đá; cuối cùng phải trú tại nhà của mục sư ở nhà thờ giáo hội Trưởng Nhiệm Thứ Tư trên đại lộ Michigan.”

“Khi đó cậu bao nhiêu tuổi?” Bố tôi hỏi, Henry ngập ngừng rồi trả lời, “Ba.” Anh ấy liếc nhìn tôi và tôi biết anh ấy đang nói về một trải nghiệm gặp phải khi đang du hành thời gian. Anh ấy nói thêm. “Lúc đó cháu đang đi cùng bố.” Những lời anh ấy nói rõ ràng là bịa đặt nhưng có vẻ chẳng ai để ý. Etta bước vào dọn đĩa rồi bày ra loạt đĩa mới dùng cho đồ tráng miệng. Sau một chút chậm trễ, Nell bước vào với món pút-đinh màu mận chín bốc lửa. “Ồ!” Henry nói. Nell đặt bánh xuống trước mặt mẹ tôi, và ngọn lửa chuyển mái tóc mờ nhạt của bà sang màu đỏ đồng, giống của tôi, trong giây lát trước khi tắt lịm. Bố tôi mở sâm-banh (bên dưới chiếc khăn ăn, để nút bật không bắn vỡ mắt một ai đó). Tất cả mọi người chuyển ly của mình cho ông và ông rót đầy chúng rồi trả lại. Mẹ tôi cắt bánh thành những miếng mỏng rồi Etta lấy cho mọi người. Có thêm hai chiếc ly nữa, một cho Etta, một cho Nell, và chúng tôi đứng dậy nâng ly chúc mừng.

Bố tôi bắt đầu: “Vì gia đình.”

“Vì Nell và Etta, những người như gia đình, những người đã làm việc vất vả chăm sóc cho nơi này và những người thật tháo vát, tài năng”, mẹ tôi nói, nhẹ nhàng.

“Vì hòa bình và công lý”, bà dì Dulcie nói.

“Vì gia đình”, Etta nói.

“Vì những sự khởi đầu”, Mark nói, hướng tới Sharon.

“Vì sự tình cờ”, chị ấy đáp lại.

Đến lượt tôi. Tôi nhìn vào Henry. “Vì hạnh phúc. Vì giây phút và nơi chốn này.”

Henry nghiêm trang đáp, “Vì thế gian và thời gian”, tim tôi trật nhịp, tôi tự hỏi làm sao anh ấy biết, nhưng rồi tôi nhận ra Marvell là một trong những nhà thơ ưa thích của anh ấy và anh ấy chẳng ám chỉ gì khác ngoài tương lai.

“Vì tuyết, vì Chúa, vì mẹ, vì bố và vì dây đàn vi-ô-lông, vì đường và vì đôi giày Converse cao cổ màu đỏ của con”, Alicia nói, và mọi người bật cười.

“Vì tình yêu”, Nell nói, nhìn thẳng vào tôi, nở nụ cười hết cỡ của bà. “Và vì Morton Thomposon, nhà sáng chế món gà tây ngon nhất quả đất này.”

HENRY: Trong suốt bữa tối, Lucille cứ không ngừng chao đảo từ buồn rầu sang phấn chấn rồi tuyệt vọng. Cả gia đình bà rất cẩn thận thăm dò tâm trạng của bà, đưa bà quay trở lại với trạng thái cân bằng hết lần này đến lần khác, đỡ cho bà, che chở cho bà. Nhưng khi chúng tôi ngồi xuống và bắt đầu ăn điểm tâm, bà khụy ngã và lặng thinh nức nở, hai vai bà run rẩy, bà quay đầu đi như thể chuẩn bị rúc nó sau một đôi cánh như một con chim đang liu riu ngủ. Lúc đầu chỉ có tôi để ý thấy, và tôi ngồi đó, kinh hãi, chẳng biết nên làm gì. Rồi Philip nhìn thấy, và rồi căn phòng chìm trong im lặng. Philip đứng dậy đi về phía bà. “Lucy?” ông ấy thì thầm. “Lucy, có chuyện gì vậy?” Clare hối hả chạy lại, nói, “Thôi mà, mẹ, sẽ ổn thôi, mẹ…” Lucille lắc đầu, không, không, và khóc ướt hai bàn tay. Philip lùi lại; Clare nói, “Suỵt”, và Lucille hấp tấp nói không rõ ràng. Tôi nghe những câu vội vã khó nghe, rồi “Sai lầm hết cả”, và rồi “Phá hủy cuộc đời nó”, và cuối cùng là “Ta hoàn toàn bị ngó lơ trong cái gia đình này”, và “Giả nhân giả nghĩa”, rồi sụt sùi. Tôi ngạc nhiên khi bà dì Dulcie là người phá vỡ im lặng. “Con à, nếu có ai giả nhân giả nghĩa ở đây thì đó là con. Con đã trải qua việc y hệt và ta không thấy nó phá hủy cuộc đời Philip một chút nào. Theo ta, còn khiến nó tốt hơn.” Lucille ngừng khóc và nhìn dì, sững sờ đến rơi vào yên lặng. Mark nhìn bố, người đang gật đầu, và rồi nhìn Sharon, đang mỉm cười như thể cô ấy vừa trúng số. Tôi nhìn Clare, cô ấy chẳng có vẻ ngạc nhiên, và tôi tự hỏi làm sao cô ấy biết mà Mark lại không, rồi lại tự hỏi còn điều gì cô ấy biết mà không nói ra, rồi nó giáng xuống tôi rằng Clare biết mọi thứ, tương lai của chúng tôi, quá khứ của chúng tôi, tất cả mọi thứ, và tôi rùng mình trong căn phòng ấm áp. Etta mang cà phê vào. Chúng tôi không nán lại vì nó.

CLARE: Etta và tôi đưa mẹ về giường. Bà cứ không ngừng xin lỗi, như cách bà vẫn luôn luôn làm, và gắng thuyết phục chúng tôi rằng bà đủ khỏe để đi dự lễ mi-sa, nhưng cuối cùng chúng tôi cũng đặt được bà nằm xuống và bà chìm vào giấc ngủ gần như ngay lập tức. Etta nói bà sẽ ở nhà phòng khi mẹ tỉnh giấc, tôi bảo bà đừng ngớ ngẩn, tôi sẽ ở lại, nhưng Etta rất khó bảo nên tôi để bà ngồi bên cạnh giường của mẹ, đọc St.Matthew. Tôi đi xuống hành lang và nhìn vào trong phòng Henry, nhưng nó tối om. Khi tôi mở cửa phòng mình, tôi thấy Henry đang nằm uể oải trên giường của tôi và đọc Nếp gấp thời gian. Tôi khóa cửa và lên nằm cùng anh ấy.

“Mẹ em bị sao vậy?” anh ấy hỏi trong lúc tôi đang cẩn thận nằm xuống cạnh anh, cố không để bị đâm bởi cái váy của mình.

“Mẹ mắc chứng hưng trầm cảm.”

“Bà luôn bị vậy sao?”

“Khi em còn nhỏ, bà có khá hơn. Một đứa con khác của bà qua đời, khi em bảy tuổi, đó là quãng thời gian tồi tệ. Mẹ đã tìm cách tự tử. Em tìm thấy bà.” Tôi vẫn còn nhớ máu chảy khắp nơi, một bể tắm đầy máu loang trong nước, những chiếc khăn tắm ướt sũng vì máu và nước. Tôi hét lên tìm sự giúp đỡ, nhưng chẳng có ai ở nhà. Henry không nói một lời, và tôi nghển cổ lên, anh ấy đang nhìn đăm đăm lên trần nhà.

“Clare”, cuối cùng anh ấy lên tiếng.

“Vâng?”

“Tại sao em không nói với anh? Ý anh là, có rất nhiều chuyện đang xảy ra trong gia đình em mà sẽ tốt hơn nếu anh được biết trước.”

“Nhưng anh đã biết…” tôi ngẩn người. Anh ấy không biết. Làm sao anh ấy có thể biết? “Em xin lỗi. Em đã kể cho anh nghe khi nó vừa xảy ra, và em quên mất rằng lúc này đang là thời điểm trước đó, em đã nghĩ anh biết hết mọi chuyện…”

Henry ngập ngừng, rồi nói, “Anh đã lột sạch những gì thuộc về gia đình anh, tất cả những bí mật và những việc xấu xa đã được vạch trần cho em thấy, anh chỉ ngạc nhiên khi…”

“Nhưng anh chưa giới thiệu em với ông.” Tôi rất nóng lòng được gặp bố của Henry, nhưng tôi ngại không dám đề cập đến.

“Phải, anh chưa.”

“Anh có định sẽ?”

“Một ngày nào đó.”

“Khi nào?” Tôi trông đợi Henry sẽ nói với tôi rằng tôi đang đòi hỏi quá mức, như anh ấy vẫn thường nói khi tôi hỏi quá nhiều, nhưng thay vào đó anh ấy ngồi dậy và đu chân xuống giường. Lưng áo của anh ấy nhàu nhĩ hết cả.

“Anh không biết, Clare. Có lẽ khi anh có thể chịu được điều đó.”

Tôi nghe có tiếng chân dừng lại ngoài cửa, và tay nắm xóc nhẹ qua lại. “Clare?” bố tôi nói. “Tại sao cửa lại khóa?” Tôi đứng dậy và mở cửa. Bố mở miệng định nói thì thấy Henry và ra hiệu cho tôi ra ngoài hành lang.

“Clare, con biết ta và mẹ con không cho phép con dẫn bạn vào phòng ngủ của mình”, ông nói khẽ. “Còn đầy những căn phòng trống khác trong nhà này…”

“Chúng con chỉ đang nói chuyện…”

“Con có thể nói chuyện trong phòng khách.”

“Con chỉ đang kể cho anh ấy nghe về mẹ và con không muốn nói về nó trong phòng khác.”

“Con yêu à, ta không nghĩ con cần phải nói cho cậu ta nghe về mẹ con…”

“Sau màn trình diễn vừa rồi của mẹ, con phải làm gì chứ? Henry có thể tự thấy rằng bà có vấn đề tâm thần, anh ấy đâu phải thằng ngốc…” tôi cao giọng và Alicia mở cửa phòng nó, đặt ngón tay lên miệng.

“Mẹ con chẳng có vấn đề tâm thần gì cả”, bố tôi nghiêm khắc nói.

“Phải, bà có”, Alicia khẳng định.

“Con đừng có xía vào…”

“Con cứ xía vào đấy…”

“Alicia!” Mặt bố tôi đỏ bừng lên, mắt ông lồi cả ra và ông lớn giọng. Etta mở cửa phòng mẹ và nhìn ba chúng tôi bực tức. “Xuống dưới nhà mà la hét”, bà rít khẽ rồi đóng cửa lại. Chúng tôi nhìn nhau bối rối.

“Không phải lúc này”, tôi bảo bố. “Bố có làm phiền con thì lúc khác hãy làm phiền”. Henry đang ngồi trên giường tôi suốt từ nãy đến giờ, giả vờ như anh ấy không có mặt ở đó. “Đi nào, Henry. Hãy sang phòng khác.” Henry, ngoan ngoãn như một cậu bé mắc lỗi, đứng dậy và đi theo tôi xuống dưới nhà. Alicia đắc thắng nhảy theo sau chúng tôi. Đứng dưới chân cầu thang, tôi nhìn lên và thấy bố đang nhìn xuống chúng tôi bất lực. Ông quay lưng bỏ đi và bước tới trước cửa phòng của mẹ rồi gõ cửa.

Hãy để lại chút cảm nghĩ khi đọc xong truyện để tác giả và nhóm dịch có động lực hơn bạn nhé <3