Vợ người du hành thời gian - Phần I - Chương 09 phần 5

 “Mười bốn.”

“Xem nào, 14 tuổi, năm 1991, có nghĩ là… ôi trời, chúng sinh năm 1977. Anh thấy mình già cỗi quá. Anh cần một li nữa.”

Laura đi qua nhà bếp, tay bưng khay Jell-O. Henry lấy hai ly và liên tiếp uống cạn chúng một cách nhanh chóng, rồi nhăn mặt. “Ôi, thật kinh khủng làm sao.” Tôi cười. “Em nghĩ bọn chúng nghe gì?” Henry nói.

“Em không biết. Sao anh không lại gần và hỏi chúng?”

Henry có vẻ cảnh giác. “Ồ, anh không thể, anh sẽ làm chúng sợ.”

“Em nghĩ anh sợ chúng.”

“Có lẽ em nói đúng. Trông chúng thật mỏng manh và trẻ trung, và xanh lè như những hạt đậu non.”

“Đã bao giờ anh ăn mặc như vậy chưa?”

Henry khịt mũi chế nhạo. “Em nghĩ sao? Dĩ nhiên là chưa. Bọn trẻ này đang bắt chước dân rock Anh. Còn anh là rock Mỹ. Anh thường ăn vận như Richard Hell hơn.”

“Sao anh không lại nói chuyện với chúng? Chúng có vẻ cô đơn.”

“Em phải đi cùng và giới thiệu anh, nắm tay anh.” Chúng tôi đi dọc nhà bếp vẻ cảnh giác, như Levi-Strauss đang lại gần bộ đôi ăn thịt người. Jodie và Bobby toát ra vẻ chiến đấu hoặc bỏ chạy mà bạn thường thấy ở loài hươu trên kênh Thế giới Động vật.

“Chào, Jodie, Bobby.”

“Chào chị Clare”, Jodie nói. Tôi biết Jodie từ khi con bé còn nằm nôi, nhưng nó có vẻ ngượng ngùng bất chợt, tôi cược rằng trang phục rock này chắc hẳn là ý tưởng của Bobby.

“Trông bọn em có vẻ buồn chán nên chị dẫn anh Henry qua nói chuyện với bọn em. Anh ấy thích trang phục của bọn em.”

“Xin chào”, Henry nói, ngượng ngùng. “Anh chỉ đang thắc mắc bọn em thường nghe gì.”

“Nghe?” Bobby hỏi lại.

“Em biết đấy, âm nhạc. Bọn em thích nghe nhạc gì?”

Bobby tươi tỉnh hẳn ra. “Sex Pistols”, thằng bé nói, rồi ngập ngừng.

“Hẳn rồi”, Henry nói, gật đầu. “Và The Clash?”

“Vâng. Và Nirvana…”

“Nirvana khá được”, Henry nói.

“Blonde?” Jodie nói như thể câu trả lời của con bé có thể sai.

“Chị thích Blondie”, tôi nói. “Còn anh Henry thích Deborah Harry.”

“Ramones?” Henry nói. Chúng cùng nhau gật đầu. “Còn Pattie Smith thì sao?”

Jodie và Bobby nhìn ngơ ngác.

“Iggy Pop?”

Bobby lắc đầu. “Pearl Jam?”

Tôi ngắt lời. “Ở đây không có nhiều kênh radio lắm”, tôi bảo Henry. “Bọn chúng không thể biết những nghệ sĩ đó được.”

“Ồ”, Henry nói. Anh ấy ngập ngừng. “Bọn em có muốn anh liệt kê ra một số thứ không? Để nghe?” Jodie nhún vai. Bobby gật đầu, có vẻ nghiêm túc, và hứng khởi. Tôi lục trong túi ra một mẩu giấy và bút. Henry ngồi xuống bàn ăn, và Bobby ngồi đối diện với anh ấy. “Được rồi”, Henry nói. “Phải quay lại với những năm 60 trước, phải không? Bắt đầu với Velvet Underground, ở New York. Rồi ngay ở Detroit này, có MC5, và Iggy Pop, Stooges. Rồi trở lại New York, có The New York Dolls, và The Heartbreakers…”

“Tom Petty?” Jodie nói. “Bọn em có nghe nói về anh ấy.”

“Không, đây là ban nhạc hoàn toàn khác”, Henry nói. “Hầu hết bọn họ đã chết trong những năm 80.”

“Tai nạn máy bay?” Bobby hỏi.

“Thuốc phiện”, Henry đính chính. “Dù sao thì, có Television, Richard Hell, Voidoids và Patti Smith.”

“Talking Heads”, tôi nói thêm.

“Anh không chắc. Em có thực sự coi họ là nhóm punk rock?”

“Họ đã từng.”

“Được rồi”, Henry ghi tên vào danh sách, “Talking Heads. Và rồi, nó chuyển qua nước Anh…”

“Em tưởng punk rock bắt đầu từ nước Anh? Bobby hỏi.

“Không. Dĩ nhiên”, Henry nói, đẩy lùi ghế ra sau, “một số người, trong đó có anh, tin rằng punk rock chỉ là sự biểu thị gần đây nhất của cảm giác, của niềm tin rằng mọi việc không đúng đắn, thậm chí là cực kỳ sai lầm, rằng việc duy nhất chúng ta có thể làm là nói quên mẹ nó đi hết lần này đến lần khác, to hết sức, cho đến khi có ai đó ngăn chúng ta lại.”

“Đúng vậy”, Bobby nói khẽ, khuôn mặt thằng bé bừng sáng trong sự hăng hái gần như tín ngưỡng dưới mái tóc tua tủa. “Đúng vậy.”

“Anh đang đầu độc bọn trẻ đấy”, tôi bảo Henry.

“Ồ, đằng nào nó cũng sẽ đến được đó mà không có anh. Phải không?”

“Em đang cố, nhưng ở đây, nó không dễ dàng.”

“Anh có thể hiểu điều đó”, Henry nói. Anh ấy ghi thêm vào danh sách. Tôi nhìn qua vai anh ấy. Sex Pistols, The Clash, Gang of Four, Buzzcocks, Dead Kennedys, X, The Mekons, The Raincoats, The Dead Boys, New Order, The Smiths, Lora Logic, The Au Paors, Bog Black, PiL, The Pixies, The Breeders, Sonic Youth…

“Henry, chúng sẽ không thể nào kiếm được những thứ này ở đây.” Anh ấy gật đầu, rồi viết số điện thoại và địa chỉ của Vintage Vinyl xuống dưới tờ giấy. “Em có máy nghe đĩa chứ?”

“Bố mẹ em có”, Bobby nói. Henry nhăn mặt.

“Em thực sự thích gì?” Tôi hỏi Jodie. Tôi có cảm giác như con bé đã bị bật ra khỏi cuộc hội thoại của hai người đàn ông mà Henry và Bobby đang làm chủ.

“Prince” con bé thừa nhận. Henry và tôi thốt lên một tiếng Ồ! lớn và tôi bắt đầu hát 1999 to hết mức có thể, Henry nhảy dựng lên và chúng tôi bám sát vào nhau nhảy điệu lắc mông giữa bếp. Laura nghe thấy chúng tôi và chạy đi bật đĩa nhạc thực sự vào, rồi như thế, bữa tiệc trở thành vũ hội.

HENRY: Chúng tôi đang trên đường trở về nhà Clare sau khi rời bữa tiệc nhà Laura. Clare nói, “Anh im lặng quá đấy.”

“Anh đang nghĩ đến những đứa trẻ đó. Baby Punks.”

“Ồ. Chúng thì sao?”

“Anh đang tự hỏi điều gì khiến cậu bé đó…”

“Bobby.”

“... Bobby, trở lại và theo đuổi dòng nhạc được sinh ra trước cả khi nó ra đời.”

“Em đã rất thích The Beatles”, Clare chỉ ra, “và họ đã tan rã trước cả khi em ra đời.”

“Phải rồi, tại sao vậy? Đáng lý em phải ngất ngây với Depeche Mode, hay Sting hay ai đó khác. Bobby và bạn gái của nó phải nghe The Cure nếu chúng muốn ăn vận theo thần tượng. Nhưng thay vào đó, chúng vùi đầu vào punk, thứ mà chúng không biết là gì…”

“Em chắc rằng chủ yếu chỉ để chọc tức bố mẹ chúng. Laura đã nói với em rằng bố cậu ấy không để Jodie ăn mặc như vậy ra khỏi nhà. Con bé nhét quần áo vào ba lô rồi thay đồ trong phòng vệ sinh nữ ở trường”, Clare nói.

“Nhưng đó là việc ai cũng làm hồi đó. Ý anh là, đó là vấn đề của việc đòi hỏi quyền cá nhận, anh có thể hiểu, nhưng tại sao chúng lại đòi hỏi quyền tự do cá nhân của năm 1977? Đáng lẽ chúng nên mặc áo ca rô vải dệt.”

“Tại sao anh lại quan tâm đến điều đó?” Clare hỏi.

“Nó khiến anh chán nản. Nó gợi nhớ rằng khoảnh khắc anh thuộc về là cái chết, và không chỉ cái chết, mà còn bị lãng quên. Những thứ này không được chơi trên radio nữa. Anh không thể hiểu vì sao. Như thể nó chưa bao giờ tồn tại. Đó là lý do vì sao anh cảm thấy hứng thú khi nhìn thấy những đứa trẻ này ăn vận như những người cuồng punk rock, vì anh không muốn tất cả những thứ đó dễ dàng biến mất.”

“Anh luôn có thể quay trở lại”, Clare nói. “Hầu hết mọi người bị gắn chặt vào hiện tại; anh lại được quyền xuất hiện ở đó hết lần này đến lần khác.”

Tôi nghĩ về điều đó. “Như vậy càng buồn thêm, Clare ạ. Kể cả khi anh có thể làm việc gì đó thú vị, như đi đến buổi nhạc hội mà anh từng bỏ lỡ, nhưng có thể ban nhạc đã tan rã hoặc có ai đó đã chết, như vậy sẽ thật buồn khi xem họ biểu diễn vì anh đã biết chuyện gì sẽ xảy ra.”

“Nhưng vậy thì có gì khác so với những việc còn lại trong cuộc sống của anh?”

“Chúng không khác.” Chúng tôi về đến con đường riêng dẫn tới nhà Clare. Cô ấy rẽ vào.

“Henry?”

“Sao?”

“Nếu bây giờ anh có thể dừng lại… nếu anh không thể du hành thời gian nữa, và sẽ không có hậu quả gì, liệu anh có dừng lại?”

“Nếu anh có thể dừng lại mà vẫn được gặp em?”

“Anh đã gặp em rồi.”

“Có. Anh sẽ dừng.” Tôi nhìn Clare mờ ảo trong bóng tối.

“Nếu vậy sẽ rất khôi hài,” cô ấy nói, “em sẽ có tất cả những ký ức mà anh sẽ chẳng bao giờ được trải nghiệm. Nó sẽ giống như ở bên người mắc hội chứng quên. Em đã cảm thấy như vậy kể từ khi chúng ta đặt chân đến đây.”

Tôi cười. “Vậy trong tương lai em sẽ có thể nhìn anh rơi vào từng ký ức một, cho đến khi anh gom đủ từng mảnh ký ức vào nhau trọn vẹn.”

Cô ấy cười. “Có lẽ vậy.” Clare rẽ vòng xuyến trước nhà. “Về tới tổ ấm rồi đây.”

Chúng tôi rón rén trở về phòng riêng của mình, tôi mặc quần áo ngủ, đánh răng, rồi lại lẻn vào phòng Clare, và lần này nhớ khóa cửa lại. Chúng tôi nằm ấm áp trên chiếc giường hẹp, cô ấy thì thầm. “Em không muốn anh bỏ lỡ chúng.”

“Bỏ lỡ gì?”

“Tất cả những gì xảy ra, khi em còn là một đứa trẻ. Cho đến giờ chúng mới đang trên đường diễn ra, vì anh chưa từng xuất hiện nơi đó. Nên khi chúng xảy ra với anh, đó sẽ là thực.”

“Anh đang trên đường đến.” Tôi vuốt tay qua bụng Clare, rồi xuống giữa hai chân cô ấy. Clare kêu ré lên.

“Suỵt!”

“Tay anh lạnh như đá”

“Anh xin lỗi.” Chúng tôi cẩn thận quan hệ, trong im lặng. Khi cuối cùng cũng đến đỉnh, nó mãnh liệt đến độ đầu tôi đau như búa bổ, và trong một thoáng, tôi sợ rằng mình sẽ biến mất, nhưng không. Thay vào đó, tôi nằm trong vòng tay Clare, nhắm nghiền mắt vì đau. Clare đang ngáy, tiếng ngáy nhẹ nhàng mà ngỡ như những chiếc xe ủi chạy qua đầu tôi. Tôi muốn chiếc giường của riêng mình, trong căn hộ của riêng mình. Tổ ấm thân yêu. Không có nơi nào như nhà. Hãy đưa tôi trở về, hỡi những con đường làng. Nhà là nơi trái tim tôi ngự trị. Nhưng trái tim tôi đang ở đây. Vậy đây chắc hẳn là nhà. Clare thở sâu, quay đầu lại, rồi im lặng. Chào em thân yêu, anh đã về. Anh đã về nhà.

CLARE: Buổi sáng trong veo và lạnh giá. Điểm tâm sáng đã được ăn. Xe đã được chất đồ. Mark và Sharon đã đi cùng bố đến sân bay ở Kalamazoo. Henry đang trong hành lang nói lời tạm biệt tới Alicia; tôi chạy lên lầu vào phòng của mẹ.

“Ồ, đã muộn rồi sao?” bà hỏi khi nhìn thấy tôi đang mặc áo choàng và đi ủng. “Mẹ tưởng con sẽ ở lại ăn trưa.” Mẹ tôi đang ngồi tại chiếc bàn mà thường xuyên chất đầy những mẩu giấy chi chít chữ viết tay của bà.

“Mẹ đang viết gì vậy?” Bất kể nó là gì, nó chằng chịt những nét chữ nguệch ngoạc và gạch xóa.

Mẹ tôi úp tờ giấy xuống bàn. Bà rất bí mật về những gì mình viết. “Chẳng có gì cả. Chỉ là một bài thơ về khu vườn dưới tuyết. Nó chẳng hay chút nào.” Mẹ tôi đứng dậy, đi về phía cửa sổ. “Thật buồn cười khi thơ chẳng bao giờ đẹp như khu vườn thật. Ít nhất thơ của mẹ là vậy.”

Tôi không thể nhận xét gì về điều này, vì mẹ chưa bao giờ để tôi đọc một bài thơ nào của bà, nên tôi nói, “Khu vườn đẹp tuyệt vời”, và bà xua tay gạt đi lời tán dương. Khen ngợi chẳng ích gì với mẹ tôi, bà không tin vào chúng. Chỉ sự chỉ trích là có thể khiến má bà đỏ ửng và thu hút được sự chú ý của bà. Nếu tôi nói gì không phải phép là bà sẽ nhớ mãi không thôi. Chúng tôi yên lặng ngượng ngùng trong giây lát. Tôi nhận ra rằng bà đang đợi tôi rời khỏi để có thể quay trở lại với việc viết lách của mình.

“Tạm biệt mẹ”, tôi nói. Tôi hôn lên khuôn mặt mát lạnh của bà, rồi trốn chạy.

HENRY: Chúng tôi đã lên đường được gần một tiếng đồng hồ. Suốt nhiều dặm, đường cao tốc được bao quanh bởi những ngọn cây thông; giờ chúng tôi đang ở trong một vùng phẳng lặng vây kín bởi những hàng rào thép gai. Đã một lúc không ai trong chúng tôi lên tiếng. Ngay khi nhận ra sự im lặng này là kỳ lạ, tôi mở miệng nói.

“Kỳ nghỉ cũng không tệ nhỉ?” Giọng tôi quá hồ hởi, quá to trong chiếc xe nhỏ. Clare không trả lời, tôi quay sang nhìn cô ấy. Cô ấy đang khóc; những giọt nước mắt chảy xuống hai bên má trong lúc lái xe và giả vờ như mình đang không khóc. Tôi chưa bao giờ nhìn thấy Clare khóc trước đây, và có điều gì đó trong những giọt nước mắt im lặng chịu đựng của cô ấy khiến tôi trở nên yếu đuối. “Clare. Clare, có lẽ… em có thể dừng xe một lúc chăng?” Vẫn không nhìn vào tôi, cô ấy giảm tốc độ và tấp vào lề đường rồi dừng lại. Chúng tôi đang ở đâu đó ở Indiana. Bầu trời xanh trong và có nhiều quạ trên cánh đồng bên đường. Clare gục đầu xuống tay lái và hít một hơi dài.

“Clare.” Tôi nói chuyện với cái gáy của cô ấy. “Clare, anh xin lỗi. Có phải anh đã làm sai điều gì? Có chuyện gì vậy? Anh…”

“Không phải tại anh”, cô ấy lên tiếng dưới làn tóc. Chúng tôi cứ ngồi vậy trong vài phút.

“Vậy thì có chuyện gì?” Clare lắc đầu, và tôi cứ ngồi vậy nhìn đăm đăm vào cô ấy. Cuối cùng tôi cũng gom đủ cam đảm để chạm vào cô ấy. Tôi vuốt tóc, và cảm nhận những lóng xương trên cổ và xương sườn cô ấy. Clare quay lại; tôi lóng ngóng ôm cô ấy qua hai chiếc ghế tách biệt và giờ Clare khóc to hơn, run rẩy.

Rồi cô ấy im lặng. Rồi cô ấy nói, “Chỉ tại mẹ hết.”

Lát sau, khi đang tắc đường trên xa lộ Dan Ryan, và lắng nghe Irma Thomas, Clare hỏi, “Henry? Nó có… anh có thấy phiền không?”

“Phiền gì cơ?” tôi hỏi, nghĩ tới lúc Clare khóc.

Nhưng cô ấy lại nói, “Gia đình em. Họ có… có phải họ…”

“Họ chẳng sao cả, Clare. Anh thực sự thích họ. Nhất là Alicia.”

“Đôi lúc em chỉ muốn ném tất cả bọn họ xuống hồ Michigan và đứng nhìn họ chìm.”

“Anh hiểu cảm giác đó. Mà này, anh nghĩ bố em và Mark đã thấy anh trước đó. Và Alicia có nói điều gì đó rất kỳ quái lúc chúng ta ra về.”

“Em đã từng nhìn thấy anh với bố và Mark. Alicia chắc chắn đã nhìn thấy anh ở dưới tầng hầm khi con bé 12 tuổi.”

“Liệu nó có là vấn đề?”

“Không, vì sự lý giải kỳ quái để có thể tin.” Cả hai chúng tôi bật cười, và sự căng thẳng đã đi cùng chúng tôi suốt quãng đường đến Chicago biến mất. Giao thông đã thông thoáng hơn. Không lâu sau Clare dừng lại trước cửa tòa nhà của tôi. Tôi lấy đồ đạc trong cốp xe, nhìn Clare lùi lại và lướt đi về phía Dearbon, cổ họng tôi nghẹn lại. Vài tiếng sau đó tôi nhận ra cảm giác mà mình đang cảm nhận là nỗi cô đơn, và một Giáng Sinh nữa đã chính thức khép lại.

Hãy để lại chút cảm nghĩ khi đọc xong truyện để tác giả và nhóm dịch có động lực hơn bạn nhé <3