Vợ người du hành thời gian - Phần I - Chương 09 phần 4

Clare đang đứng ngay rìa ánh sáng nên khuôn mặt của cô ấy
chìm trong bóng tối, nhưng thân hình bồng bềnh ra khỏi màn đêm, hai tay khoanh
trước ngực. Tôi hướng sự chú ý trở lại bàn. Đã được một lúc. Tôi dễ dàng đưa bi
số 2, 3 và 6 vào lỗ, rồi tìm kiếm đường bi khác. Bi số 1 đang nằm ngay trước lỗ
góc ở bên kia bàn, tôi đưa bi cái tới bi số 7 đập vào bi số 1 và đưa nó vào lỗ.
Tôi lại đưa bi số 4 vào lỗ bên bằng một cú căn băng và đưa bi số 5 vào lỗ góc
bằng một cú liên hoàn may mắn. Chỉ là tình cờ, nhưng Alicia vẫn huýt sáo thán
phục. Bi số 7 vào lỗ mà không gặp rủi ro. “Bi số 8, lỗ góc”, tôi dùng cơ ra
dấu, và bi vào lỗ. Một tiếng thở dài thốt ra đâu đó quanh bàn.

“Ồ, chơi tuyệt lắm”, Alicia nói. “Nữa đi.” Clare mỉm cười
trong bóng tối.

“Không giống em hằng ngày chút nào”, Mark nói với Alicia.

“Em quá mệt để tập trung. Và bực mình nữa.”

“Vì bố?”

“Phải.”

“Nếu em thọc ông, ông phải thọc lại thôi.”

Alicia bĩu môi. “Ai chẳng có lúc mắc lỗi.”

“Đã có lúc nó nghe như Terry Riley”, tôi bảo Alicia.

Con bé mỉm cười.
“Nó  Terry Riley. Trong album Salome Dances for
Peace!

Clare cười. “Làm thế nào mà Salome lại xuất hiện trong Silent
Night?

“Thì John the Baptist, em đã nghĩ như vậy là đủ liên quan
rồi, và nếu chị hạ tông đoạn violin đầu đó xuống một quãng tám thì nó nghe sẽ
khá tuyệt, la la la, LA…”

“Nhưng em không thể trách bố vì đã nổi giận”, Mark nói. “Ý
anh là, ông biết em sẽ không đời nào chơi thứ gì nghe như vậy chỉ vì không may
mắc lỗi.”

Tôi rót cho mình ly rượu thứ hai.

“Frank đã nói gì?” Clare hỏi.

“Ông ấy rất thích nó. Ông ấy đã tìm cách tạo ra một bản nhạc
mới từ đó, như kiểu Silent Night kết hợp Stravinsky. Frank đã
87 tuổi, ông ấy chẳng bận tâm nếu em bày trò miễn sao ông ấy thấy thích thú.
Còn Arabella và Ashley đã càu nhàu không ít.”

“Thì nó không được chuyên nghiệp cho lắm”, Mark nói.

“Ai thèm bận tâm? Đây chỉ là nhà thờ Thánh Basil.” Alicia
nhìn tôi. “Còn anh nghĩ sao?”

Tôi ngần ngại. “Anh không thực sự bận tâm”, cuối cùng tôi
nói. “Nhưng nếu bố anh nghe em chơi như vậy, ông ấy sẽ rất giận.”

“Thật ư? Tại sao?”

“Ông ấy có quan điểm rằng mọi bản nhạc cần phải được tôn
trong, cho dù đó là bản nhạc ông ấy không thích. Ông ấy không thích Tchaikovsky
hay Strauss, nhưng ông ấy sẽ chơi chúng rất nghiêm túc. Đó là lý do vì sao ông
ấy tuyệt đến vậy. Ông chơi mọi bản nhạc như thể ông yêu chúng say đắm.”

“Ồ”, Alicia đi ra sau quầy bar, pha cho mình một ly rượu nữa
và nghĩ về điều này trong giây lát. “Anh rất may mắn vì có được một ông bố yêu
thứ gì đó ngoài tiền.”

Tôi đứng sau Clare, lướt các ngón tay dọc sống lưng cô ấy
trong bóng tối. Cô ấy đưa tay ra phía sau và tôi siết chặt lấy nó. “Anh nghĩ em
sẽ không nói như vậy nếu em biết đủ về gia đình. Vả lại, anh thấy bố em có vẻ
rất quan tâm đến em.”

“Không”, con bé lắc đầu. “Ông chỉ muốn em phải hoàn hảo
trước mặt bạn bè ông thôi. Ông chẳng quan tâm chút nào.” Alicia xếp bi và xoay
cho chúng vào vị trí. “Ai muốn chơi?”

“Anh sẽ chơi”, Mark nói. “Henry?”

“Được thôi.” Mark và tôi thoa lơ rồi đứng đối mặt nhau hai
bên bàn.

Tôi phá băng. Bi số 4 và số 15 vào lỗ. “Bi trơn”, tôi nói,
nhìn thấy bi số 2 gần góc bàn. Tôi đưa nó vào lỗ, rồi trượt bi số 3. Tôi đang
dần thấm mệt, sự tập trung đang loãng dần do whiskey. Mark chơi bằng sự quyết
tâm mà không có sự tinh tế, và đưa bi số 10, rồi số 11 vào lỗ. Tôi sớm đưa tất
cả bi trơn còn lại vào lỗ. Bi 13 của Mark đang nằm trên mép của lỗ góc. “Bi 8”,
tôi nói và chỉ vào nó. “Anh không thể đưa bi của Mark vào lỗ, bằng không anh sẽ
thua”, Alicia nói. “Không sao đâu”, tôi đáp. Tôi đánh bi cái nhẹ nhàng chạy dọc
bàn, rồi nó hôn nhẹ vào bi số 8, đẩy mượt mà và dễ dàng về phía bi 13, trông
gần như đi vòng quanh bi 13 trên đường ray, rồi lịch thiệp rơi tõm xống lỗ,
Clare bật cười, nhưng rồi bi 13 lảo đảo và rơi theo xuống lỗ.

“Ừ thì”, tôi nói, “dễ ăn, dễ mất.”

“Ván đấu hay lắm”, Mark nói.

“Chúa ạ, anh học chơi như vậy ở đâu thế?” Alicia hỏi.

“Đó là một trong những điều anh học ở trường.” Đi kèm với
nhậu nhẹt, thơ Anh và Đức, cả thuốc phiện nữa. Chúng tôi xếp cơ lại rồi nhặt
cốc và chai lên.

“Chuyên ngành của cậu là gì?” Mark mở cửa và chúng tôi cùng
nhau đi dọc hành lang về phía bếp.

“Văn học Anh.”

“Tại sao không phải là âm nhạc?” Alicia cầm cốc của mình và
của Clare bằng một tay trong lúc đẩy cửa phòng ăn.

Tôi cười. “Em sẽ không tin anh mù âm nhạc đến mức nào đâu.
Bố mẹ anh đã nghĩ họ đem nhầm con từ bệnh viện về.”

“Đó chắc hẳn là một gánh nặng”, Mark nói. “Ít nhất thì bố
cũng không bắt em trở thành luật sư”, anh ấy nói với Alicia. Chúng tôi bước nhà
bếp và Clare bật điện lên.

“Ông cũng đâu có bắt anh”, con bé vặn lại. “Anh thích nó.”

“Đó là ý anh muốn nói. Ông không bắt chúng ta phải làm điều
chúng ta không muốn.”

“Đó có phải một gánh nặng không?” Alicia hỏi tôi.

“Trước khi mẹ anh mất, mọi thứ đang rất tuyệt. Sau đó thì
thật khủng khiếp. Nếu anh đã là một thần đồng violin thì có thể… anh không
biết”. Tôi nhìn Clare, và nhún vai. “Dù sao thì, bố anh và anh không hợp nhau
một chút nào.”

“Tại sao?”

Clare nói, “Đến giờ đi ngủ rồi.” Ý cô ấy là, đủ rồi. Alicia đang đợi câu trả lời.

Tôi quay mặt về
phía con bé. “Em đã nhìn thấy bức hình nào của mẹ anh chưa?” Con bé gật đầu.
“Trông anh giống hệt mẹ.”

“Thì sao?” Alicia
rửa cốc dưới vòi nước. Clare lau khô.

“Thì ông ấy không
thể chịu được mỗi khi nhìn anh. Đó chỉ là một trong nhiều lý do.”

“Nhưng…”

“Alicia…” Clare cố gắng nhưng Alicia không phải người có thể
bị ngăn lại.

“Nhưng ông ấy là bố của anh.”

Tôi mỉm cười. “Những việc em làm để khiến bố em bực mình chỉ
là một cốc bia nhỏ so với những gì anh và bố anh đã làm với nhau.”

“Như điều gì?”

“Như vô số lần ông nhốt anh trong căn hộ, trong đủ loại thời
tiết. Như lần anh ném chìa khóa xe của ông xuống sông. Đại loại vậy.”

“Tại sao anh làm thế?”

“Anh không muốn ông phá nát chiếc xe, ông đã say.”

Cả Alicia, Mark và Clare nhìn tôi gật đầu. Họ hoàn toàn
hiểu.

“Đến giờ đi ngủ”, Alicia nói, rồi chúng tôi rời nhà bếp và
đi về phòng mà không nói thêm một lời, ngoại trừ, “Chúc ngủ ngon.”

CLARE: Theo đồng hồ báo thức của tôi thì bây giờ đang là 3
giờ 14 phút sáng và tôi đang cảm thấy ấm dần lên trên chiếc giường lạnh lẽo khi
cửa phòng mở ra và Henry im lặng bước vào. Tôi kéo chăn ra và anh ấy trèo lên.
Chiếc giường kêu lên kẽo kẹt trong lúc chúng tôi chỉnh lại tư thế.

“Xin chào”, tôi thì thầm.

“Xin chào”, Henry thì thầm đáp lại.

“Đây không phải là một ý hay.”

“Phòng anh lạnh lắm.”

“Ồ”. Henry chạm vào má tôi, và tôi phải nén không xuýt xoa,
những ngón tay của anh ấy lạnh buốt. Tôi xoa chúng giữa lòng bàn tay của mình.
Henry chui sâu hơn vào trong chăn. Tôi tựa sát vào anh ấy, gắng tìm lại chút
hơi ấm. “Em có đi tất không?” anh ấy hỏi khẽ.

“Có.” Anh ấy với xuống và cởi chúng ra. Sau một vài phút và
rất nhiều kẽo kẹt cùng với tiếng Suỵt! cả hai chúng tôi đã
trần trụi.

“Anh đã đi đâu khi biến mất khỏi nhà thờ?”

“Căn hộ của anh. Trong khoảng năm phút, bốn ngày sau.”

“Tại sao?”

“Mệt mỏi. Căng thẳng. Có lẽ vậy.”

“Không, tại sao lại ở đó?”

“Anh không biết. Chế độ mặc định chăng? Có lẽ người điều
khiển giao thông du hành thời gian nghĩ trông anh sẽ bảnh chọe khi ở đó.” Henry
vùi tay vào tóc tôi.

Trời đang sáng dần ngoài kia. “Giáng Sinh vui vẻ”, tôi thì
thầm.

Henry không trả lời, tôi nằm thao thức trong tay anh ấy và
nghĩ về các thiên thần, lắng nghe hơi thở nhịp nhàng của anh ấy và trân trọng
nó bằng tất cả tấm lòng.

HENRY: Tôi thức dậy khi trời vừa sáng để đi vệ sinh; lúc tôi
đang ngái ngủ đứng trong phòng tắm của Clare và tháo nước trong
ánh sáng của chiếc đèn ngủ Tinkerbell thì nghe thấy tiếng con gái vang lên,
“Clare?” Trước khi tôi có thể nhận ra tiếng nói này phát ra sau cánh cửa mà tôi
đã nghĩ là cửa tủ quần áo đang mở thì tôi thấy mình đứng trần truồng trước mặt
Alicia. “Ối”, cô bé thì thầm trong lúc tôi chụp lấy chiếc khăn tắm và che chính
mình trong muộn màng. “Ồ, xin chào, Alicia”, tôi thì thầm, và cả hai chúng tôi
nhe răng cười. Cô bé biến mất trở lại vào phòng của mình đột ngột như khi xuất
hiện.

CLARE: Tôi gà gật lắng nghe căn nhà thức giấc. Nell đang ở
dưới bếp, ngân nga hát và khua khoắng xoong chảo. Có ai đó đang đi ngoài hành
lang, đi qua phòng tôi. Tôi nhìn lên và Henry vẫn đang say sưa ngủ, rồi tôi
chợt nhận ra tôi phải đưa anh ấy ra khỏi đây trước khi có ai nó nhìn thấy. Tôi
gỡ mình ra khỏi Henry và những lớp chăn rồi cẩn thận trèo xuống giường. Tôi
nhặt áo choàng ngủ dưới sàn lên và choàng qua đầu trong lúc Etta nói, “Clare! Trời
sáng rồi, Giáng Sinh đến rồi!” và thò đầu vào cửa. Tôi nghe tiếng Alicia gọi
Etta, và trong lúc ló đầu ra khỏi áo choàng ngủ tôi thấy Etta chạy tới chỗ
Alicia. Tôi quay trở lại giường và Henry không còn ở đó nữa. Quần ngủ của anh
ấy đang nằm trên thảm và tôi đá chúng xuống dưới giường. Etta bước vào phòng
tôi trong chiếc áo choàng tắm màu vàng của bà, tóc bà xõa xuống hai vai. Tôi
nói, “Giáng Sinh vui vẻ!” và bà kể cho tôi nghe điều gì đó về mẹ, nhưng tôi
không thể tập trung lắng nghe vì mải hình dung ra cảnh Henry hiện hình trước
mặt Etta. “Clare?” Etta nhìn tôi lo lắng.

“Hả? Ồ, xin lỗi. Có lẽ cháu vẫn còn ngái ngủ.”

“Dưới nhà có cà phê đấy.” Etta đang dọn giường. Trông bà có
vẻ lúng túng.

“Để cháu làm, Etta. Bác cứ xuống dưới đi.” Etta vòng sang
bên kia giường. Mẹ tôi ló đầu vào cửa. Bà trông rạng rỡ, sáng sủa hơn sau cơn
bão đêm qua. “Chúc mừng Giáng Sinh, con yêu.”

Tôi bước lại gần bà, hôn khẽ lên má. “Chúc mừng Giáng Sinh,
mẹ.” Thật khó để tức giận với bà khi bà là người mẹ thân thiện đáng yêu của tôi.

“Etta, chị xuống dưới nhà với tôi nhé?” Mẹ hỏi. Etta lấy tay
vỗ vỗ vào gối và các vết hằn song song của hai cái đầu của chúng tôi biến mất.
Bà nhìn tôi, nhướn lông mày, nhưng không nói gì cả.

“Etta?”

“Đến đây…” Etta hối hả đi theo mẹ. Tôi đóng cửa lại và dựa
người vào nó sau khi họ đi khỏi, chỉ vừa kịp lúc để thấy Henry lăn ra khỏi gầm
giường. Anh ấy đứng dậy và mặc quần ngủ vào. Tôi khóa cửa lại.

“Anh đã ở đâu vậy?” Tôi thì thầm.

“Dưới gầm giường”, Henry thì thầm đáp, như thể đó là điều
hiển nhiên.

“Từ nãy giờ?”

“Phải.” Chẳng hiểu sao tôi thấy điều này thật khôi hài, và
tôi bắt đầu khúc khích. Henry đặt tay lên miệng tôi, và không lâu sau cả hai
chúng tôi run lên vì cười, trong im lặng.

HENRY: Ngày Giáng Sinh yên tĩnh đến kỳ lạ sau những cơn
giông bão đêm qua. Chúng tôi tập trung quanh cây thông, bồn chồn đứng trong
những chiếc áo choàng tắm và dép lê, còn các bậc cha mẹ lo mở quà, và những
tiếng kêu hồ hởi vang lên. Sau tràng cảm ơn dạt dào từ mọi phía, chúng tôi ăn
sáng. Có một khoảng thời gian bình lặng rồi lại ăn bữa tối Giáng Sinh, với
những lời khen nức nở dành cho Nell và những con tôm hùm. Ai cũng mỉm cười vui
vẻ, cư xử phải phép và trông bảnh chọe. Chúng tôi là một gia đình hạnh phúc
kiểu mẫu, một tấm áp phích quảng cáo cho giai cấp tư sản. Chúng tôi là tất cả
những gì tôi đã luôn ước có được khi ngồi trong nhà hàng Lucky Wok với bố và
ông bà Kim mỗi ngày Giáng Sinh, và giả vờ như đang vui vẻ trong lúc họ lo âu
nhìn tôi. Nhưng ngay cả khi chúng tôi đang thư thả, ấm thân no bụng, ngồi trong
phòng khách sau bữa tối, xem bóng đá và đọc những cuốn sách chúng tôi đã tặng
nhau và gắng điều khiển những món quà cần sử dụng pin và/hoặc phải lắp ráp, vẫn
có sự căng thẳng dễ dàng nhận thấy. Như thể ở đâu đó, tại một trong những căn
phòng vắng vẻ trong căn nhà này, lệnh ngừng bắn đã được ban ra, và tất cả các
bên đang cố gắng thực thi, ít nhất cho đến ngày mai, đến khi lô đạn dược mới
được chuyển đến. Tất cả chúng tôi đang diễn kịch, đang giả vờ như thoải mái,
khoác lên mình vai diễn của một người mẹ, người cha, anh trai, chị em gái, bạn
trai và vị hôn phu lý tưởng. Bởi vậy nó là một sự giải thoát khi Clare nhìn
đồng hồ của mình, đứng dậy khỏi ghế, và nói, “Đi nào, đã đến giờ ghé nhà Laura
rồi.”

CLARE: Bữa tiệc của Laura đang náo nhiệt khi chúng tôi đến.
Henry căng thẳng và xanh xao, đi liền tới quầy rượu ngay lúc chúng tôi cởi áo
khoác ra. Tôi vẫn còn cảm thấy buồn ngủ do rượu uống trong bữa tối, nên tôi lắc
đầu khi anh ấy hỏi tôi muốn uống gì, và anh ấy mang cho tôi một ly cô-ca. Henry
nắm chặt lấy chai bia của mình như thể nó là phao cứu sinh. “Trong bất kì hoàn
cảnh nào, đừng bỏ anh lại chống đỡ một mình”, Henry đòi hỏi, mắt nhìn qua vai
tôi, và trước khi tôi kịp quay đầu lại Helen đã ở trước mặt. Chúng tôi im lặng
ngượng ngùng trong chốc lát.

“Henry”, Helen nói, “bọn em nghe nói anh là thủ thư. Nhưng
trông anh không giống thủ thư chút nào.”

“Thực ra, anh là người mẫu đồ lót cho Calvin Klein. Chức thủ
thư chỉ là vỏ bọc mà thôi.”

Chưa bao giờ tôi thấy Helen bối rối như lúc này. Giá mà tôi
có mang theo máy ảnh. Cậu ấy nhanh chóng lấy lại bình tĩnh, nhìn Henry từ trên
xuống, rồi mỉm cười. “Được rồi, Clare, cậu có thể giữ anh ấy”, Helen nói.

“Thật nhẹ nhõm khi nghe cậu nói vậy”, tôi bảo cậu ấy. “Tớ đã
đánh mất biên lai rồi.” Laura, Ruth và Nancy
kéo lại chỗ chúng tôi, mặt mày quả quyết, và tra khảo chúng tôi: chúng tôi đã
gặp nhau như thế nào, Henry làm gì, anh ấy học đại học gì, đủ thứ trên trời
dưới biển. Tôi chưa bao giờ nghĩ rằng khi Henry và tôi cuối cùng cũng xuất hiện
giữa đám đông cùng nhau lại có thể vừa đau đầu vừa nhàm chán đến thế. Tôi giật
mình khi Nancy
nói, “Thật kỳ lạ khi tên anh cũng là Henry.”

“Ồ?” Henry nói, “Tại sao vậy?”

Nancy
kể cho anh ấy nghe về bữa tiệc ở nhà Mary Christina, bữa tiệc mà tấm cầu cơ đã
phán rằng tôi sẽ cưới một người tên Henry, Henry lộ vẻ ấn tượng. “Thật sao?”
anh ấy hỏi tôi.

“Ừm, phải.” Đột nhiên tôi cần phải đi vệ sinh gấp. “Xin
lỗi”, tôi nói, tự tách mình ra khỏi nhóm và lờ đi vẻ mặt nài nỉ của Henry.
Helen bám theo gót tôi trong lúc tôi đi lên cầu thang. Tôi phải đóng sầm cửa
vào mặt cậu ấy để ngăn cậu ấy khỏi đi theo vào.

“Mở cửa ra, Clare”, cậu ấy nói, lắc lắc tay nắm cửa. Tôi
thong thả đi vệ sinh, rửa tay và tô lại son môi. “Clare”, Helen càu nhàu, “Tớ
sẽ đi xuống nhà và kể cho bạn trai cậu mọi điều xấu xa cậu đã từng làm trong
đời nếu cậu không mở cửa ra ngay lập…” tôi mở toang cánh cửa và Helen chút nữa
ngã lăn ra sàn.

“Được lắm, Clare Abshire”, Helen nói hăm dọa. Cậu ấy đóng
cửa lại, Tôi ngồi xuống thành bể tắm còn cậu ấy tựa lên bồn rửa mặt, oai vệ
trước mặt tôi với mưu đồ moi móc thông tin của cậu ấy. “Khai mau. Chuyện gì
đang diễn ra giữa cậu và anh chàng Henry này? Ý tớ là, cậu đứng giữa thanh
thiên bạch nhật và xổ ra một tràng dối trá. Không phải cậu mới gặp anh ta ba
tháng trước, cậu đã biết anh ta hàng năm trời rồi. Bí mật lớn này là gì?”

Tôi thực sự không biết phải bắt đầu từ đâu? Tôi có nên nói
cho Helen biết sự thật? Không.

Tại sao không? Theo tôi biết, Helen chỉ mới gặp Henry một
lần duy nhất, và anh ấy đã không khác bây giờ là mấy. Tôi quý Helen. Cậu ấy
mạnh mẽ, cậu ấy điên loạn, cậu ấy không dễ bị lừa. Nhưng tôi biết cậu ấy sẽ
không đời nào tin nếu tôi nói, du hành thời gian, Helen ạ. Bạn phải chứng kiến
mới có thể tin.

“Được rồi”, tôi nói, tự trấn tĩnh lại mình. “Phải, tớ đã
biết anh ấy từ rất lâu.”

“Lâu đến mức nào?”

“Từ khi tớ sáu tuổi.”

Mắt Helen trợn tròn lên như một nhân vật hoạt hình. Tôi phì
cười.

“Tại sao… làm thế nào… cậu đã hẹn hò với anh ta được bao lâu
rồi?”

“Tớ không biết. Đã có một khoảng thời gian mối quan hệ của
bọn tớ mập mờ không xác định, nhưng chẳng có gì xảy ra cả. Henry kiên quyết
rằng anh ấy sẽ không lả lơi với một đứa trẻ, nên tớ chỉ yêu anh ấy vô vọng…”

“Nhưng… làm thế nào mà bọn tớ chưa từng biết gì về anh ta?
Tớ không hiểu tại sao cậu phải giữ bí mật. Cậu có thể nói với tớ.”

“Cậu cũng lờ mờ đoán được mà.” Câu này thật dở, đến tôi cũng
biết vậy.

Helen có vẻ tổn thương. “Đâu có giống với cậu kể tớ nghe.”

“Tớ biết. Tớ xin lỗi.”

“Hừm. Vậy lý do là gì?”

“Anh ấy lớn hơn tớ tám tuổi.”

“Thì sao?”

“Thì khi tớ 12 tuổi, anh ấy đang 20, đó là vấn đề.” Chưa kể
khi tôi 6 tuổi, anh ấy đang 40.

“Tớ vẫn không hiểu. Ý tớ là, tớ biết tại sao cậu không muốn
bố mẹ cậu biết cậu đang chơi trò Lolita và Humbert với anh ta, nhưng tớ không
hiểu tại sao cậu không thể nói với bọn tớ. Bọn tớ sẽ hoàn toàn ủng hộ. Ý tớ là,
bao lâu nay bọn tớ cảm thấy ái ngại cho cậu, lo lắng cho cậu, và tự hỏi tại sao
cậu cư xử như một bà sơ…” Helen lắc đầu. “Trong khi thực tế thì cậu đang chơi
trò người lớn với anh thủ thư suốt từ đó đến giờ…”

Tôi không thể nhịn được, tôi đỏ mặt. “Tớ không có chơi trò
người lớn với anh ấy suốt từ đó đến giờ.”

“Ôi, thôi đi.”

“Thật đấy! Bọn tớ đã đợi cho đến khi tớ 18 tuổi. Vào sinh
nhật của tớ.”

“Kể cả vậy đi nữa, Clare”, Helen bắt đầu, nhưng có tiếng gõ
cửa thình thịch, và một giọng nam ồm ồm hỏi, “Các cô xong chưa?”

“Cậu chưa xong với tớ đâu”, Helen rít lên khi chúng tôi ra
khỏi nhà tắm trong tiếng vỗ tay của năm gã thanh niên đứng xếp hàng trong hành
lang.

Tôi tìm thấy Henry trong bếp, đang kiên nhẫn lắng nghe một
trong những cậu bạn vận động viên của Laura ba hoa về bóng đá. Tôi bắt gặp ánh
mắt của cô bạn mũi khoằm tóc vàng của cậu ta, và cô ấy kéo cậu ta đi lấy thêm
đồ uống.

Henry nói, “Clare, nhìn này, Baby Punks[3]!” Tôi
nhìn theo hướng anh ấy chỉ, đó là Jodie, cô em gái 14 tuổi của Laura, và bạn trai
cô ấy, Bobby Hardgrove. Bobby có kiểu tóc Mohawk xanh và chiếc áo phông rách
rưới gắn đầy kim băng, còn Jodie đang gắng để trông như Lydia Lunch, nhưng thay
vào đó, cô bé chỉ giống một con gấu trúc Mỹ xù lông. Trông chúng như đang tham
dự lễ hội Halloween thay vì tiệc Giáng Sinh. Chúng như bị mắc kẹt, lạc lõng và
đầy cảnh giác. Nhưng Henry lại hăng hái. “Ồ! Chúng bao nhiêu tuổi? Mười hai?”

[3] Punks: Những người cuồng nhạc rock thập niên 70.

Hãy để lại chút cảm nghĩ khi đọc xong truyện để tác giả và nhóm dịch có động lực hơn bạn nhé <3